9 Bài Phân Tích Bài Thơ Đồng Chí Lớp 9 Đạt 10 Điểm Văn, Phân Tích Bài Thơ Đồng Chí Của Chính Hữu

Đồng chí là một bài thơ xuất sắc trong kho tàng thơ ca giai đoạn chống Pháp. Đây cũng là bài thơ tạo nên tên tuổi cho nhà thơ Chính Hữu. Để có thể hiểu rõ hơn về bài thơ này, mời các em tham khảo bài viết phân tích bài thơ Đồng chí lớp 9 cùng trường Edison nhé.

Đang xem: 9 bài phân tích bài thơ đồng chí lớp 9 đạt 10 điểm văn

I. Dàn ý

1. Mở bài:

Các em có thể chọn các cách mở bài khác nhau:

– Dẫn dắt về tác giả và giới thiệu về bài thơ “Đồng chí”.

– Trích dẫn một nhận định hay về nhà thơ Chính Hữu hoặc bài thơ “Đồng chí”.

– Trích dẫn một câu thơ hay về người lính hoặc chiến tranh của những tác giả khác, để liên hệ sang bài Đồng chí.

2. Thân bài:

a. Tình đồng chí được hình thành từ các cơ sở:

– Chung hoàn cảnh xuất thân: 

+ Quê anh: Nước mặn đồng chua

+ Làng tôi: Nghèo, đất cày lên sỏi đá

→ Cả hai đều xuất thân từ nghèo khó.

– Chung lý tưởng chiến đấu: Hai người xa lạ nhưng có chung một lý tưởng là bảo vệ Tổ quốc “Súng bên súng đầu sát bên đầu”. “Súng” là đại diện cho chiến trường, “đầu” là suy nghĩ, tình cảm của người lính. Đây là câu thơ thể hiện sự gắn kết, cùng chung lí tưởng, cùng chung nhiệm vụ.

– Chung hoàn cảnh thiếu thốn vật chất “Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”: Điều kiện sống nơi chiến trường thiếu thốn, hai người phải chia nhau tấm chăn nhỏ. Nhưng chính nhờ những đêm giá rét, thiếu thốn ấy mà hai con người xa lạ trở thành tri kỉ của nhau.

 b. Những biểu hiện của tình đồng chí:

– Thấu hiểu nỗi tâm tư của nhau, hiểu hoàn cảnh xa nhà, xa quê hương đi chiến đấu.

– Cùng trải qua bệnh tật: biết từng cơn ớn lạnh, sốt run người, trán ướt mồ hôi.

– Chia sẻ khó khăn: Áo anh rách vai, quần tôi có vài mảnh vá, chân không giày.

→ Dù khó khăn, bệnh tật, thiếu thốn nhưng không điều gì ngăn được tình đồng đội cao đẹp của những người lính.

c. Bức tranh đẹp về người lính:

– Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới: Tâm thế chủ động “chờ giặc”, hiên ngang như bức tượng đài tráng lệ. Họ đã sát cánh bên nhau trong đêm “rừng hoang”, “sương muối” nhưng tình đồng chí ấm áp đã giúp người chiến sĩ quên đi cái lạnh, quên đi sợ hãi.

– Đầu súng trăng treo: Súng là hiện thực chiến tranh, trăng đại diện cho cái đẹp, cho hòa bình. Hai hình ảnh lồng vào làm một, tạo nên biểu tượng đẹp cho người lính: Vừa hào hùng vừa lãng mạn.

3. Kết bài:

Các em có thể lựa chọn nhiều cách kết bài khác nhau: Khẳng định giá trị sâu sắc của bài thơ hoặc khẳng định lại tài năng tác giả.

II. Bài văn tham khảo: Phân tích bài thơ Đồng chí lớp 9

*

Bài 1:

Nhà thơ Chính Hữu là “nhà thơ quân đội thực thụ”, ông trưởng thành từ hai cuộc kháng chiến lớn của dân tộc. Chính Hữu viết nhiều và viết rất hay về những người lính. Dường như xuyên suốt cả cuộc đời và sự nghiệp của mình, ông đã dành trọn tình yêu cho sắc xanh áo lính. Bài thơ “Đồng chí” là tác phẩm làm nên tên tuổi của nhà thơ Chính Hữu. Chính Hữu đã đưa những nét vẽ tài tình để tạo nên bức tranh người lính trong cuộc kháng chiến chống Pháp – vừa hào hùng vừa lãng mạn, cháy nồng trong tim tình yêu nước và tinh thần đồng đội thiết tha.

Nhà thơ Chính Hữu sinh năm 1926. Ông tham gia cách mạng từ năm 1945, góp mặt trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của dân tộc. Bài thơ “Đồng Chí” được sáng tác năm 1948, lấy cảm hứng từ trải nghiệm của chính nhà thơ khi ông tham gia vào chiến dịch Việt Bắc cùng đồng đội. “Đồng chí” là một trong những bài thơ xuất sắc nhất viết về người lính trong thời kháng chiến chống Pháp.

Xem thêm:

Người lính trong “Đồng chí” hiện lên qua hình ảnh thơ vô cùng bình dị. Họ là những người xa lạ, từ những miền quê khác nhau về đây tụ họp, tạo nên tình đồng chí.

*

Tác giả đã rất tinh tế khi sử dụng cặp từ xưng hô “anh – tôi”. Gọi “anh” xưng “tôi” thể hiện sự tôn trọng, trân quý dành cho người đồng đội của mình. Một tiếng “anh” như kéo hai người xa lạ lại gần nhau hơn. Họ đến từ nhiều miền quê khác nhau, nghe theo tiếng gọi Tổ quốc mà về đây tụ họp. Một nơi là miền “nước mặn đồng chua”, một nơi là vùng “đất cày lên sỏi đá”, hai địa phương khác nhau nhưng có chung một cái nghèo, cái vất vả. Có lẽ cảnh nghèo, sự thấu hiểu nỗi vất vả của nhau khiến các anh thấy gần gũi, thân thiết hơn, tạo nền tảng hình thành nên “tình đồng chí”. Họ không hẹn mà gặp, đều nghe theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc mà lên đường trở thành người lính, từ những người xa lạ không biết mặt biết tên trở nên thân thiết hơn, trở thành đồng chí, đồng đội của nhau:

*

Không chỉ có chung hoàn cảnh xuất thân, lý tưởng bảo vệ Tổ quốc cao đẹp cũng đã đưa những trái tim hòa chung một nhịp.

*

Súng là đại diện cho nhiệm vụ chiến đấu, đầu là biểu tượng của suy nghĩ, tâm tư người lính. Hai người lính đã kề vai sát cánh để thực thi nhiệm vụ, vượt qua mọi nguy hiểm nơi chiến trường. Họ cùng chung lý tưởng, chung chí hướng, thấu hiểu nỗi tâm tư của nhau. Tác giả đã khéo léo dùng biện pháp tiểu đối “Súng bên súng, đầu sát bên đầu” và biện pháp hoán dụ “đầu sát bên đầu” để gợi lên sự chia sẻ, gắn bó như tri kỷ tâm giao, lúc nào cũng có nhau, lúc nào cũng hiểu nhau.

Tình đồng chí như càng bền chặt hơn qua những lần sẻ chia khó khăn, ngọt bùi nơi chiến trường.

*

Sự khó khăn, thiếu thốn về vật chất của bộ đội ta những năm đầu đánh Pháp đã được tác giả tinh tế gợi lên qua hình ảnh “đêm rét chung chăn”. Bộ đội đóng quân ở rừng, đêm xuống trời rét cắt da cắt thịt nhưng lại chỉ có một tấm chăn mỏng. Những người lính đã chia nhau cùng đắp tấm chăn nhỏ nhưng đầy ắp sự yêu thương, sẻ chia. Tưởng như khó khăn sẽ khiến người lính chùn bước, nản lòng. Nhưng không, khó khăn thì ta chia sẻ, khắc phục, chính khó khăn đã giúp tình đồng chí thăng hoa hơn, trở thành tri kỷ của nhau. Người ta nói rằng tình bạn lúc khó khăn chính là tình bạn chân thành và bền chặt nhất.

Khổ thơ khép lại bằng hai tiếng “Đồng chí !”. Không dài dòng, hoa mỹ, chỉ hai từ thôi nhưng chứa đựng biết bao ý nghĩa. Tiếng gọi “đồng chí” rất trang nghiêm nhưng cũng vô cùng gần gũi. Giọng thơ trầm xuống tạo cảm giác thiêng liêng, cao quý của tình đồng đội. Dấu chấm than đặt ở cuối câu khiến câu thơ giàu cảm xúc hơn, giống như một tiếng gọi, lời chào thân thương dành cho đồng đội. Chính Hữu không dùng nhiều từ, nhưng đã dùng từ thật “đắt”. Hai từ “Đồng chí” như chiếc bản lề, khép lại sự hình thành tình đồng chí để mở ra trang thơ mới – trang thơ của tình cảm tha thiết, quý giá giữa những người lính với nhau.

Tình đồng chí được gắn kết bằng sự thấu hiểu những tâm tư, suy nghĩ của nhau:

*

Những người lính mới hôm qua còn tay cày, tay cuốc, nay nghe theo tiếng gọi của Tổ quốc yêu thương mà lên đường ra trận. Ruộng nương – thứ quý giá nhất của người nông dân nay phải “gửi bạn thân cày”, gian nhà cũng bị “gió lung lay”. Trong tâm trí họ chắc chắn vẫn nặng nỗi nhớ quê. Thế nhưng tình yêu đất nước đã được đặt lên trên tất cả. Họ sẵn sàng gửi lại những gì quý giá thân thiết nhất của cuộc sống để ra đi vì nghĩa lớn. Hai từ “mặc kệ” đã thể hiện được tinh thần lạc quan, dứt khoát của người lính. Nặng lòng với quê nhưng không quên việc nước, dứt khoát vì Tổ quốc nhưng vẫn không quên tình quê hương. Hai dòng chảy yêu quê và yêu nước vẫn song hành trong tim người chiến sĩ, tiếp thêm sức mạnh để các anh lên đường. Tác giả đã tinh tế sử dụng hình ảnh “giếng nước gốc đa” – biểu tượng của làng quê Việt Nam để gợi lên hình ảnh quê hương. Nghệ thuật hoán dụ và nhân hóa đã giúp bày tỏ nỗi niềm nhớ nhung của nơi hậu phương gửi người tiền tuyến. Bút pháp nhân hóa nỗi nhớ cũng gây ấn tượng mạnh mẽ với người đọc.

Tình đồng chí không chỉ là sự chia sẻ tâm tư mà còn là lúc cùng nhau vượt qua gian khó.

*

Bộ đội thường phải đóng quân trong rừng sâu. Nơi rừng hoang nước độc, các anh không những khó khăn về vật chất mà còn phải chống chọi với bệnh tật, trải qua những cơn sốt rét rừng nguy hiểm: “từng cơn ớn lạnh ” “vừng trán ướt mồ hôi”. Nhà thơ Quang Dũng cũng từng viết “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc/ Quân xanh màu lá dữ oai hùm”. Cái đói và bệnh sốt rét khiến tóc mọc không nổi, da xanh như màu lá. Thế mới biết được sự khó khăn và thiếu thốn của bộ đội ta ngày xưa lớn đến nhường nào. Ta càng thêm biết ơn và tự vào về những người chiến sĩ đã hy sinh cuộc sống riêng vì nghĩa lớn dân tộc.

Cuộc sống chiến đấu gian khổ cũng được tác giả miêu tả chân thực qua những câu thơ:

*

Bằng những câu thơ gợi hình đầy chân thực và xúc động cùng thủ pháp liệt kê, câu thơ đã diễn tả được nỗi vất vả, thiếu thốn của người lính thời chống Pháp. Nơi rừng sâu giá lạnh nhưng các anh cũng chỉ mặc trang phục mong manh, “áo rách vai”, “quần vá” , “chân không giày”. Dù thiếu thốn nhưng tình thần của người lính vẫn luôn lạc quan, dẫu cho áo có rách, quần vá, trời buốt giá thì trên môi người lính vẫn nở nụ cười.

Và giữa hoàn cảnh thiếu thốn trăm bề, tình đồng đội vẫn luôn rực cháy “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”. Hơi ấm từ bàn tay đồng đội đã tạo nên sức mạnh để đưa người lính vượt qua giá rét, vượt qua gian khổ. Họ không giàu sang về vật chất, chỉ có đôi bàn tay thôi nhưng tình cảm vẫn rất cao quý và thiêng liêng, dường như trong cái khổ, tinh thần đồng đội lại càng thắm thiết..

Khổ thơ cuối tạo nên biểu tượng đẹp cho tình đồng đội.

*

Vượt lên trên tất cả khó khăn, trái tim người lính vẫn tràn đầy nhiệt huyết, đứng canh gác dù đêm khuya, sương lạnh. Tâm thế “chờ giặc” thể hiện sự chủ động, hiên ngang của người chiến sĩ. Họ lúc nào cũng sẵn sàng để chiến đấu bảo vệ Tổ quốc.

Câu thơ cuối khép lại bài thơ thật đặc biệt. Câu thơ chỉ có 4 chữ, ngắn gọn, súc tích, chứa đựng nhiều ý nghĩa. Khi ấy có lẽ đêm đã về khuya, ánh trăng từ từ hạ xuống như treo trên mũi súng. Một hình ảnh thật nên thơ! Trăng và súng là hình ảnh mang tính biểu tượng. Súng là đại diện cho chiến tranh, cho nhiệm vụ, trăng là hình ảnh thơ mộng, là cái đẹp của cuộc sống. Trong cuộc chiến đấu gian khổ, người lính vẫn yêu đời, thưởng thức vẻ đẹp thơ mộng của thiên nhiên. Tận hưởng cái đẹp của thiên nhiên nhưng vẫn không quên nhiệm vụ. Cái hiện thực xen vào thơ mộng, chất thép hòa với chất thơ tạo nên biểu tượng của người lính thời xưa: Hào hùng nhưng vẫn rất đối lãng mạn, vừa là chiến sĩ vừa là thi sĩ. Hình ảnh ánh trăng cũng là biểu tượng của yên bình, của độc lập, của ngày mai tươi sáng. Đây cũng chính là ước vọng và mục tiêu của những người chiến sĩ, mong cho Tổ quốc hòa bình.

Xem thêm:

Với lời thơ mộc mạc, chân thành, nhà thơ Chính Hữu đã mang đến một bài thơ thật đặc sắc cho kho tàng thơ ca chiến đấu. Chính Hữu viết về chiến tranh mà không có bom đạn, thế nhưng vẫn tạo được âm hưởng hào hùng, kiêu hãnh. Hình ảnh người chiến sĩ bình dị nhưng vẫn rất hào hùng cùng tình đồng chí, đồng đội thiêng liêng sẽ luôn ghi dấu trong lòng độc giả, để thế hệ mai sau mãi nhớ và tự hào về một thời khói lửa anh hùng.

Leave a comment

Your email address will not be published. Required fields are marked *