Top 10 Bài Văn Phân Tích Tác Phẩm Chí Phèo Của Nam Cao, Phân Tích Truyện Ngắn Chí Phèo Của Nam Cao (Dàn Ý

Chí Phèo” được biết đến là tác phẩm truyện ngắn nổi tiếng của nhà văn Nam Cao. Qua đó, tác giả đã có những quan tâm, những khám phá riêng về số phận người lao động bị chà đạp trong xã hội cũ. Và nhân vật Chí Phèo – một điển hình nghệ thuật bất hủ trong văn xuôi Việt Nam được Nam Cao thể hiện cái nhìn đầy đủ mới mẻ, độc đáo có chiều sâu trong thể hiện nỗi khổ con người. Hôm nay Top 10 Tìm Kiếm sẽ tổng hợp Top 25 bài văn mẫu phân tích nhân vật Chí Phèo hay nhất. Hãy cùng chúng tôi tìm hiểu nhé!

Dàn ý Phân tích nhân vật Chí Phèo

Mở bài

Khái quát tóm tắt về nhà văn Nam Cao và tác phẩm Chí Phèo: Nam Cao vừa là nhà văn vừa là chiến sĩ Cách mạng. Ông là tấm gương sáng về lòng say mê nghề viết lách. Tác phẩm của ông nổi tiếng bởi giá trị nhân đạo và giá trị hiện thực to lớn. Trong đó có truyện ngắn nổi tiếng mang tên Chí Phèo. Tác phẩm ấy đã kết tinh mọi tài năng nghệ thuật ngôn ngữ của nhà văn.Tóm lược hình tượng nhân vật Chí Phèo: Chí Phèo vừa là tên tác phẩm, vừa tên của hình tượng trung tâm. Cuộc đời Chí Phèo là tổng hòa tất cả các bi kịch đau thương nhất của một kiếp người. Vì thế, nhân vật ấy đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả khi khép lại trang sách.

Đang xem: Phân tích tác phẩm chí phèo của nam cao

Thân bài

Luận điểm 1: Xuất thân và cuộc sống của Chí Phèo trước khi ở tùHoàn cảnh gia đình: Từ khi sinh ra, Chí Phèo đã không cha, không mẹ, không nhà, không cửa, thậm chí một tấc đất cắm dùi cũng không. Chí được người dân làng Vũ Đại nhặt về nuôi nấng. Cậu bé Chí lơn lên trong tình yêu thương chân chất của dân làng hiền lành.Mặc dù không ai nuôi dạy tử tế, nhưng Chí lớn lên vẫn có những phẩm chất tốt đẹp:Lập dàn ý phân tích nhân vật Chí Phèo không thể không nói tới phần này. Chí thực sự là một người lương thiện: vì khi đã biết tự kiếm sống, Chí đã đi ở đỡ cho hết nhà này đến nhà khác. Chí làm thuê cuốc mướn, làm ăn chân chính để nuôi thân.Chí cũng như bao chàng trai thiện lương khác, mơ về cuộc sống gia đình giản dị: có một ngôi nhà nho nhỏ, chồn cày thuê cuốc mướn…Chí cò lòng tự trọng: Khi bà ba Bá Kiến gọi lên xoa bóp, đấm lưng, Chí cảm thấy nhục. Điều đó chứng tỏ Chí rất có lòng tự trọng. Chí có ý thức về nhân phẩm của mình. Và Chí đã sống yên ổn tốt đẹp như bao người khác trong khoảng 20 năm đầu đời.Luận điểm 2: Những biến đổi của Chí Phèo sau khi ra tùTừ đâu Chí Phèo bị bắt vào tù:Vì cái tính hay ghen của Bá Kiến. Bá Kiến lo sợ trước bà ba phốp pháp hây tuổi xuân bên chàng trí trẻ, lực điền. Hắn dùng quyền lực của mình để đẩy Chí Phèo vào lao ngục.Hậu quả của nhà tù:Đó là chế độ lao ngục của thực dân đã biến chàng thanh Chí lương thiện thành một “con quỷ dữ làng Vũ Đại”.Con quỷ đó hiện hình bằng những hình ảnh như “Hắn vừa đi vừa chửi…” Một sự xuất hiện rất tự nhiên. Thông qua tiếng chửi, hiện lên chân dung rõ nét của nhân vật: đó là một kẻ lưu manh. Hắn cứ rượu và là lời ra. Hắn chửi hết thảy, không trừ một ai.Con quỷ ấy đã không còn tính người. Giờ trong hắn chỉ còn là một tên: du côn, luôn triền miên trong những cơn say. Hắn hành động vô thức như đập đầu, phá phách và làm công cụ cho Bá Kiến.Con quỷ ấy tới nhà Bá Kiến để trả thù nhưng lại bị Bá Kiến lợi dụng, biến thành tay sai chuyên đi đâm thuê, chém mướn, phá nát hạnh phúc của bao người. Có thế nói, Chí một lần nữa đã bị Bá Kiến cướp đi không chỉ nhân hình mà còn cả nhân tính.Luận điểm 3: Chí Phèo gặp Thị Nở- cuộc hội ngộ định mệnhTình yêu thương ngốc nghếch, không chút vụ lợi và chân thành của Thị Nở đã khiến bản chất thiện lượng trong Chí thức tỉnh:Đầu tiên là đánh thức về nhận thức: Chí bắt đầu nhận biết được tất cả thanh âm của cuộc sống. Chí Phèo nhận ra cuộc đời mình là một tấn bi kịch. Hắn sợ cô đôc và cô đơn.Thứ hai là đánh thức về ý thức: Hắn bỗng thấy thèm khát thiện lương. Hắn muốn sống hòa thuận, tử tế với mọi người.Hình ảnh bát cháo hành là như trở thành một kỷ vật minh chứng cho tình yêu đầu đời mà Chí Phèo nhận được. Đó không chỉ là món quà thể hiện tình cảm giữa hai người khác giới mà là sự đồng cảm giữa những phận người khốn khổ. Đó là tình cảm của tình người chân thật và giàu tính nhân văn. Hình ảnh bát cháo vô cùng độc đáo, một trong những vị thuốc quý giúp Chí tỉnh rượu và tỉnh và tính người.Luận điểm 4: Tấn bi kịch khi bị cự tuyệt quyền làm người.Khi lập dàn ý phân tích nhân vật Chí Phèo, ta mới không bỏ lỡ li do dẫn tới tấn bi kịch ấy chính là vì bà cô Thị Nở không đồng ý cho Thị lấy Chí Phèo làm chồng. Việc từ chối này của cá nhân bà cô nhưng cũng chính là định kiến của xã hội với những người làm đường lạc lối.Tâm trạng của Chí Phèo khi nhận được hung tin:Mới đầu Chí chẳng hiểu mô tê gì, nên hắn ngạc nhiên và thích thú trước thái độ của Nở.Nhưng rồi sau khi ngẫm ra mọi chuyện, hắn đâm ra tuyệt vọng. Hắn lại tìm đến rượu. Hắn định đi giết con Thị Nở lẫn bà cô nhưng chẳng hiểu sao hắn lại tới nhà Bá Kiến. Hắn đòi Bá Kiến lương thiện. Không ai cho hắn, hắn liền rút dao đâm chết Bá Kiến rồi tự sát.Trong bài dàn ý phân tích nhân vật Chí Phèo các bạn cần nói rõ thêm ý nghĩa của hành động giết Bá Kiến và tự sát của Chí:Ý nghĩa thứ nhất: việc đâm chết Bá Kiến được xem là hành động lấy máu rửa hận của người nông dân thức bị áp bức đến tận cùng đã thức tỉnh về quyền sống.Ý nghĩa thứ hai đó là, dù cho phải trả cái giá đắt thì con người lương thiện vẫn luôn muốn có một cuộc sống làm người bình thường. Và cái chết của Chí Phèo chính là sự hy sinh của con trong đau đớn để tìm về với sự sống đích thực.Luận điểm 5: Nghệ thuật tạo nên nhân vậtKhi lập dàn ý phân tích nhân vật Chí Phèo các bạn nhất thiết không được quên luận điểm này. Bởi đây chính là tài năng trong nghệ thuật xây dựng nhân vật bằng ngôn từ của tác giả. Nhà văn đã tạo nên một nhân vật điển hình trong một hoàn cảnh cũng rất điển hình.Bên cạnh đó là nghệ thuật miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật sống động, chân thực. Tác giả viết từ trí tưởng tượng nhưng độc giả lại cảm nhận thấy câu chuyện ấy là có thật. Nhân vật ấy là có thực và có thể bắt gặp đâu đó. Đặc biệt, quá trình phát triển tâm lý quá phù hợp.

Kết bài

Khi lập dàn ý phân tích nhân vật Chí Phèo, trong phần kết bài, các bạn cần khái quát lại những nét tiêu biểu, nổi bật đã tạo nên hình tượng Chí Phèo. Ví dụ mồ côi, nghèo hết chỗ để nghèo nhưng lương thiện cho đến năm 20 bị tù đày. Trở về hắn thành con quỷ làng Vũ Đại. Tiếp đến hắn mong ước được hoàn lương vì đã tìm được tình yêu đầu tiên với Thị Nở. Nhưng rồi, hắn tuyệt vọng vì Thị không thể lấy hắn. Hắn đi đòi lương thiện để rồi tự sát.Sau khi khái quát nhân vật Chí, các bạn có thể chia sẻ thêm về cảm nhận của bản thân về nhân vật.

Top 25 bài văn mẫu phân tích nhân vật Chí Phèo hay nhất

Phân tích nhân vật Chí Phèo – Mẫu số 1

Cách mở đầu tác phẩm “Chí Phèo” hết sức đặc biệt, mở đầu bằng tiếng chửi của Chí Phèo – một con người bị tha hóa hoàn toàn cả nhân hình lẫn nhân tính: “Hắn vừa đi vừa chửi”. Mà hắn chửi mới lạ lùng và ngoa ngoắt làm sao: “Hắn chửi trời, chửi đời, chửi cả làng Vũ Đại, chửi cả những ai không chửi nhau với hắn”. Không lạ sao được bởi khi chửi người ta thường phải hướng tới một đối tượng cụ thể đằng này hắn hướng tới tất cả cuộc đời này, trời đất này. Lạ lùng hơn nữa, đây không phải là lần đầu tiên hắn chửi bỏi “Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi”. Vì sao hắn lại đến nông nỗi ấy? Nhân vật của Nam Cao vừa mới xuất hiện đã trở thành một ấn số khiến người đọc tò mò đoán định: con người ấy không tạo được chút cảm tính nào, song lại gieo vào lòng người một niềm xót xa – hắn anh ta phải có nỗi niềm khổ đau nào đó mới đến nỗi dùng rượu đế hủy hoại thân xác, những tiếng chửi đời ngoa ngoắt kia cũng nói lên một điều rằng chủ nhân của nó đã bị mất hết niềm tin vào cuộc đời, vào con người trên thế gian này. Người đọc tò mò đọc tiếp trang truyện và quả thực, cuộc đời Chí Phèo hiện lên như một cuốn phim bi thảm.

Có thể nhận thấy cuộc đời của Chí Phèo vô cùng tội nghiệp và đáng thương, Chí Phèo là hình tượng tiêu biểu cho người nông dân nghèo thời đó. Nhìn lại cuộc đời của Chí, từ khi mới lọt lòng đã là đứa trẻ bị bỏ rơi, lớn lên bằng sự cưu mang của cả làng Vũ Đại, rồi lớn lên làm anh tá điền chân chất với ước mơ bình dị như bao người thì lại bị Bá Kiến đẩy vào tù. Đến khi trở lại làng Vũ Đại, Chí đã không còn là Chí nữa. Chí bị hủy hoại từ con người đến tính cách. Chẳng còn ai nhận ra Chí của ngày xưa hiền lành, chất phác mà giờ chỉ là thằng Chí Phèo, thích gây sự với người thường, rượu tan nát, và suốt ngày chửi bới… Ở Chí Phèo, bản chất lương thiện ấy bị cái xã hội tăm tối ra sức hủy diệt. Nhà tù thực dân đã tiếp tay cho tên cường hào Bá Kiến bắt giam Chí, biến hắn từ một người lương thiện thành con quỷ dữ.

Đi tù “biệt tăm”, bỗng đâu hắn lại “lù lù lần về”. Một Chí Phèo đã hoàn toàn khác hẳn: “Cái đầu thì trọc lóc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà rất câng câng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết”. Chí mặc cái quần nái đen, cái áo tây vàng, cái ngực và cái tay chạm trổ rồng, phượng nói một ông tướng cầm chùy… Đó là hình ảnh Chí Phèo lúc ngồi uống rượu với thịt chó ở chợ từ trưa tới xế chiều, cho đến lúc say khướt. Hắn đã hành động một cách dữ dội: xông thẳng đến nhà Bá Kiến chửi “mồ mả tổ tiên đến lộn lên mất”, đập cái vỏ chai vào cái cổng, rạch mặt, kêu trời ăn vạ! Chí Phèo đã hành động như một tên đầu bò vô cùng ngang ngược.

Tuy nhiên hắn đã nhận diện ra Bá Kiến là kẻ thù của mình. Nhưng chỉ một bữa rượu, một vài câu mơn trớn, một đồng bạc đãi thêm của cụ Bá đã làm cho “Chí Phèo vô cùng hả hê”. Hắn mơ hồ về chuyện hắn “còn có họ” với lí Cường đấy! Mấy hôm sau, Chí lại dở trò lưu manh đốt quán mụ bán rượu, lại vác dao đến nhà cụ Bá xin đi ở tù “bẩm quả đi ở tù sướng quá!”. Chỉ sáu ngày sau khi Chí về lại làng, hắn đến nhà Bá Kiến lần thứ hai sinh sự: “Cái mặt thì ngầu lên, hai chân thì lảo đảo, cái môi bầm lại mà run bần bật”. Hắn nghiến răng hăm dọa: con phải đâm chết vài ba thằng rồi cụ bắt con giải huyện”. Cụ Bá cười khanh khách, vỗ vai Chí Phèo một cái, hắn như bị thôi miên, rồi vác dao đến nhà đội Tảo đòi nợ cho cụ Bá. Chẳng xảy ra chuyện đổ máu. Chí Phèo vênh vênh cầm năm chục đồng bạc ra về, tự đắc: “Anh hùng làng này cóc thằng nào bằng ta”. Từ đó Chí Phèo trở thành “đầy tớ chân tay mới” của Bá Kiến. Thế là Chí có nhà, có năm sào vườn ở bãi sông, năm đó hắn hăm bảy, hăm tám tuổi. Cùng kể từ đáy, Chí mất phương hướng hẳn, hắn trở thành tay sai đắc lực của Bá Kiến. Hắn đã bán mình cho quỷ dữ, và chẳng bao lâu hắn cũng trở thành một con quỷ dữ ghê tởm. Hắn chìm ngập vào vũng bùn tăm tối, tội lỗi. Hắn mất dần ý niệm về thời gian, không biết tuổi tác cuộc đời mình “đã dài bao nhiêu năm rồi”. Năm nối năm, tuổi nối tuổi, “ba mươi tám hay ba mươi chín? Bốn mươi hay ngoài bốn mươi?’’.

Gương mặt của Chí Phèo hoàn toàn bị tha hóa với những vết sẹo dọc ngang đầy trên mặt, bộ mặt của người ăn vạ. Hắn đâm thuê chém mướn để kiếm tiền mà uống rượu. Những cơn say của hắn tràn cơn này sang cơn khác, thành một cơn dài, mênh mông. “Hắn ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say, thức dậy hãy còn say, đập đầu, rạch mặt, chửi bới dọa nạt trong lúc say, uống rượu trong lúc say, để rồi say nữa, say vô tận”. Chí Phèo bị mua chuộc, bị xô đẩy vào con đường lưu manh, tội lỗi. Muốn giết người, muốn đâm chém và cướp giật cần gan và liều mạng, hắn đã tìm đến rượu. Mất dần nhân tính, hắn trở thành con quỷ dữ làng Vũ Đại: “Hắn biết đâu hắn đã phá bao nhiêu cơ nghiệp, đập nát bao nhiêu cảnh yên vui, đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt của bao nhiêu người lương thiện”.

Tình yêu đã làm cho Chí thức tỉnh và cảm nhận được cuộc sống xung quanh nhưng chẳng bao lâu sự thức tỉnh ấy đã bị vùi dập. Chí đã có tình yêu thật đẹp với Thị Nở, chính thứ tình yêu ấy khiến Chí thêm can đảm kết thúc nguyên nhâm gây ra nỗi đau của Chí. Nếu như ngày trước Chí sống như một con vật chỉ biết đâm thuê chém mướn, phá hoại sự bình yên của dân làng, thì giờ đây Chí đã chết như một con người khi biết nhận thức những sự việc ở xung quanh mình, biết cảm nhận tình yêu, biết nỗi khổ đâu đớn của mình xuất phát từ đâu. Tác giả để cho Chí Phèo tự kết liễu đời mình đã đưa ra những thông điệp đầy ý nghĩa: Đó là hành động lấy máu rửa thù của người nông dân thức tỉnh về quyền sống vùng lên, tuy manh động, tự phát, liều lĩnh, tuyệt vọng nhưng không phải là hành động lưu manh. Cái chết của Chí đáng thương, là lời tố cáo xã hội thực dân nửa phong kiến đã đẩy người nông dân vào con đường bần cùng hóa, lưu manh hóa, đẩy họ tới cái chết bi thảm. Xã hội ấy không có chỗ cho người lầm lạc trở về cuộc sống lương thiện.

phân tích nhân vật chí phèo, phân tích chí phèo, chí phèo

Phân tích nhân vật Chí Phèo – Bài số 2

“Chí Phèo” được viết vào năm 1941, là một truyện ngắn xuất sắc của nhà văn Nam Cao viết về đề tài người nông dân trước cách mạng tháng 8. Đây là một trong những truyện ngắn có thể nói là nổi bật nhất trong các tác phẩm khác ra đời cùng thời và đưa Nam Cao đi lên vị trí hàng đầu trong lớp nhà văn hiện thực, phê phán xã hội vào giai đoạn 1930-1945.Tác giả đã xây dựng thành công , nổi bật hình tượng một nhân vật điển hình đó là nhân vật Chí Phèo, phản ánh một tấn bi kịch có ý nghĩa rất sâu cay vào loại tiêu biểu của nền văn học Việt Nam lúc bấy giờ.

Chí Phèo là một kiệt tác của nhà văn Nam Cao dựa trên cơ sở người thật, việc thật ở vùng quê của mình, ông đã hư cấu tạo nên một bức tranh hiện thực về đời sống của những người dân Việt Nam trước cách mạng tháng 8 với tất cả sự tăm tối, sự ngột ngạt cùng bao nhiêu là đau đớn, kinh hoàng,… Nhân vật Chí Phèo là đại diện cho bị kịch của những người nông dân bị tha hóa nhân cách trong xã hội cũ. Nhưng tất cả những nỗi khổ cực, bi đát trong cái xã hội đấy không thể làm cho những người người nông dân khốn khổ như Chí Phèo mất đi niềm khao khát được sống một cuộc sống thanh bình hạnh phúc bên gia đình, vợ con. Nhưng thực ra ở bên trong con người họ lại luôn có một sự phản kháng vô cùng mạnh mẽ.

Nam Cao không đề cập đến các vấn đề về sưu thuế, tô thuế như các tác phẩm cùng thời khác mà ông có những khám phá riêng của mình về số phận của những người dân lao động khốn khổ bị chà đạp. Đó là một cái nhìn vô cùng mới mẻ, độc đáo nhưng vô cùng sâu sắc, thể hiện nỗi đau trăm chiều của những người nông dân nghèo bị áp bức trong xã hội thực dân phong kiến.

Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên là ai mà có ảnh hưởng lớn đến vậy? Mở đầu tác phẩm nhà văn Nam Cao đã giới thiệu nhân vật Chí Phèo của mình một cách rất ấn tượng và lôi cuốn người đọc. Nhà văn đã để hắn ta xuất hiện trong trạng thái say rượu, không có ý thức về mọi thứ “hắn vừa đi vừa chửi”. Điều này rất là lạ bởi thông thường người ta thường chửi có đối tượng cụ thể đằng này hắn chửi tất cả những gì hắn nhìn thấy, hướng tới tất cả cuộc đời trời đất này. Lạ lùng hơn nữa khi đây không phải là lần đầu tiên xảy ra chuyện này mà đã xảy ra rất nhiều lần trước đó, nó được minh chứng qua câu nói “bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi”. Vậy tại sao Chí Phèo lại ra nông nỗi như vậy? Nhân vận của Nam cao xuất hiện đã tạo ra một ẩn số khiến người đọc vô cùng tò mò. Có người sẽ dự đoán Chí Phèo chắc phải có nỗi khổ nào trong lòng mới dùng rượu để trút hết những tâm tư, suy nghĩ ra. Và quả thực cuộc đời hắn ta hiện lên trong tác phẩm như một cuốn phim bi thảm.

Chí Phèo vốn là một đứa trẻ bị bỏ rơi một cách rất tàn nhẫn, có thể hiểu đơn giản như mồ côi bố mẹ, sự ra đời của hắn không được bất kỳ ai mong đợi. Hay nói trắng ra là hắn là một đứa con hoang, khi hắn sinh ra cha không thừa nhận, mẹ hắn ra thì bỏ hắn lại ở cái lò gạch cũ mặc cho sống chết, đói rét, khóc thét. Vậy là chỉ có duy nhất cái lò gạch cũ là chấp nhận sự ra đời của hắn. Khi mà hắn ta trở nên xám ngắt cả thân thể trong chiếc váy đụp mẹ hắn để lại rồi những người nông dân nghèo khổ đã nhìn thấy và nhặt hắn về nuôi. Ban đầu người nuôi hắn ta là một anh đi thả ống lươn, sau đó là một người đàn bà góa phụ rồi đến bác phó cối. Nhưng rồi khi bác phó cối chết đi Chí Phèo lại trở thành đứa bé bơ vơ, không nơi nương tựa. Những khi đói bụng muốn có cái gì đó ăn hắn phải đi hết nhà này đến nhà khác để xin miếng ăn sống qua ngày. Cuộc đời của Chí Phèo rất lênh đênh và tội nghiệp chẳng khác gì một thứ bèo dại trôi dạt từ nơi này sang nơi khác không có chỗ dung thân. Nhưng thực ra đó cũng là tình cảnh chung của những người nông dân trước cách mạng tháng 8, cuộc đời của họ cũng dập dềnh không khác gì Chí Phèo, những người đi ở đợ, nhưng người buôn thúng, bán mẹt nay đây mai đó không chỗ dung thân phải đi tha hương cầu thực ở xứ người.

Đến năm mười tám đôi mươi, số phận đã đưa đẩy Chí Phèo đến với gia đình nhà Bá Kiến. Những tưởng được bước vào gia đình giàu có là sẽ kiếm được bát cơm manh áo , không phải lo chuyện no đói hằng ngày nữa nào ngờ lại gặp địa ngục trần gian. Bởi bà vợ của Bá Kiến cứ bắt hắn bóp chân hằng ngày, khêu gợi những chuyện tế nhị, hắn tuy còn trẻ và ít tuổi nhưng bản thân hắn cũng đủ ý thức phân biệt được đâu là tình yêu chân chính đâu là thói dâm dục xấu xa, bỉ ổi. Những lời dụ dỗ đó không thể làm mất đi bản chất của Chí Phèo. Nhìn chung lúc bấy giờ Chí là một chàng trai lương thiện, tốt bụng và có lòng tự trọng. Đọc đến đây nhiều người sẽ liên tưởng đến nhân vật chị Dậu của Ngô Tât Tố đã càm đống giấy bạc để ném vào mặt tên quan bỉ ổi, đê tiện, xấu xa. Hay gần gũi hơn nữa là nhân vật Lão Hạc của Nam Cao, chính lòng tự trọng rất cao đã khiến hắn từ chối mọi sự giúp đỡ của mọi người, và cuối cùng lão cũng đã tìm đến con đường chết để giữ lại lòng tự trọng cao quý ở chính con người mình.

Nhưng sống lương thiện trong xã hội này không hê được yêu thương và quý trọng mà thay vào đó là sự lợi dụng. Bản chất lương thiện, tốt bụng của Chí Phèo đã bị chính cái xã hội thối nát lúc bấy giờ ra sức hủy hoại. Nhà tù thực dân đã tiếp tay cho Bá Kiến bắt giam Chí Phèo và biến hắn từ một người lương thiện thành một con quỷ dữ.

Sau bảy, tám năm ngồi tù và trở về làng Vũ Đại, Chí Phèo đã trở thành một con quỷ đội lốt con người “đầu thì trọc lốc”, “răng cạo trắng hớn”, “ trông gớm chết” . Trên người hắn xăm kín người với những hình thù quái dị, bản chất thánh thiện của hắn ngày xưa đã không còn. Bây giờ hắn trở thành một con người chỉ biết làm điều ác. Nhà văn đã sử dụng từ ngữ “ghê chết” để bày tỏ sự kinh hãi đối với hắn. Sự lưu manh trong con người hắn ngày càng hiện lên rất rõ qua những hành động hằng ngày. Khi hắn mua rượu để uống không được hắn đốt quán, hắn lấy mảnh chai rạch vào mặt rồi nằm ăn vạ,…Hắn càng trở nên độc ác hơn bao giờ hết khi rơi vào tay Bá Kiến và trở thành công cụ đắc lực cho ông ta. Chỉ cần Bá Kiến cho hắn vài hào là hắn có thể đâm chém bất kỳ người nào được ông ta yêu cầu. Càng ngày Chí càng lún sâu vào con đường tội lỗi không có lối thoát.

Ở đây với những đặc điểm nổi bật này ở nhân vật Chí Phèo, Nam Cao đã có một phát hiện mới và đầy tinh tế trong đời sống của người nông dân Việt Nam khổ cực trước cách mạng tháng tám. Nếu như chỉ dừng lại ở việc phân tích đời sống khốn khổ, bần cùng của những người nông dân thì đã co “tắt đèn”, “bước đường cùng”,… Nhưng cái mới của Nam Cao trong tác phẩm này đó là đã chỉ ra con đường lưu manh hóa, tha hóa của những người nông dân về bản chất. Họ vốn là những con người rất thật thà, chất phác, thánh thiện và giàu lòng tự trọng. Những con người cả cuộc sống không bước ra khỏi cổng làng thì làm sao có thể làm hại người khác được. Song nhà văn bằng ngòi bút xuất sắc và sắc sảo của mình đã vạch ra được tội ác của những kẻ đứng sau mỗi con quỷ lương tâm của người nông dân. Đó chính là thủ đoạn độc ác, để tiện của bọn cường hào giàu có như Bá Kiến kết hợp với sự tàn bạo, hà khắc của chính quyền thực dân lúc bấy giờ. Chính những con người này đã nhào nặn và bôi bẩn lên tâm hồn vốn rất mong manh và lương thiện của những người nông dân.

Cuộc gặp gỡ với nhân vật Thị Nở đã khiến cho cuộc đời của Chí Phèo bước sang một trang mới. Thị Nở không khác gì một ánh trăng dịu êm của đêm ấy, tình thương của Thị Nợ dành cho Chí Phèo không khác gì dòng sông lấp lánh dịu êm dưới ánh trăng chứa chan bao nhiêu tình cảm. Chính những điều đó đã đánh thức bản chất lương thiện trong con người Chí, làm nó sống lại và giúp Chí sống lại kiếp sống của con người. Tình thương quả đúng là thần dược giúp khôi phục các vết thương, chữa lành những tổn thương nặng nhất. Thị Nở đã làm sống lại sự tự ý thức về bản thân trong con người của Chí Phèo. Hắn sống lại với ước muốn giản dị là “một gia đình nhỏ”. Vậy là sau bao nhiêu năm tháng, hôm nay Chí lại nghe thấy tiếng chim hót ở ngoài kia hay tiếng những bà cô đi chợ hỏi nhau “hôm nay vải mấy xu hả mấy dì?” Những âm thanh này thực ra ngày nào chả có nhưng đến tận hôm nay Chí mới để ý và nghe thấy bởi hôm nay Chí mới bừng tỉnh, mới thiết tha mong về cuộc sống sau này. Bát cháo hành của Thị Nở đem đến cho Chí khiến hắn vô cùng cảm động “mắt ươn ướt”, “hắn cười thật hiền”. Rồi hắn nghĩ rất nhiều về tương lai, một tương lai bình dị có một gia đình hạnh phúc. Chí đã khóc, chính giọt nước mắt và nụ cười ấy đã khiến Thị Nở thầm nghĩ “có lúc hắn hiền như đất”. Rồi Chí nói với Thị Nở một cách ấm áp và đầy tình mong muốn Thị Nở sang đấy ở hẳn với mình. Ngay lúc này hắn kháo khao muốn được trở về cuộc sống lương thiện như ngày trước không phải bận tâm chuyện gì “trời ơi hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao, Thị Nở sẽ mở đường cho hắn”.

Chính những trang văn ấy đã làm sáng bừng câu chuyện và sáng bừng cả cuộc đời tăm tối của Chí Phèo. Chưa khi nào từng cử chỉ, lời nói của hắn lại làm chúng ta cảm động đến vậy. Chúng thể hiện một điều rằng lần đầu tiên trong đời chí đã biết được lí tưởng sống, mục đích sống sau này của cuộc đời mình, nó nằm ở nơi người đàn bà bề ngoài xấu xí bị cả xã hội cười chê, xa lánh. Mong ước giản dị của hắn có thể làm bất kỳ người nào cũng phải giật mình và tự nhìn nhận lại những gì bản thân mình đang có để cảm thấy nâng niu và quý trọng nó hơn.

Tưởng rằng từ nay cuộc đời Chí sẽ bước sang một ngã rẽ khác nhưng bi kịch của Chí chưa dừng lại ở đó. Thị Nở đã từ chối lời đề nghị ở chung của Chí bởi bà cô Thị Nở không cho phép lấy một thằng không biết làm gì ngoài việc rạch mặt làm chồng. Nếu nhìn nhận đúng thì không thể nào trách bà cô của Thị Nở được bơi đó cũng chính là cách nhìn của những người sống trong xã hội lúc bấy giờ đối với Chí Phèo. Hắn ta khóc rưng rưng và tiếp tục lại rơi vào những ngày tháng bi kịch tuyệt vọng muốn được làm người mà không ai công nhận. Thế là hắn lại tìm đến những chén rượu, hắn cứ uống cho đến lúc say mềm rồi cầm dao vừa đi vừa chơi. Hắn giao tiếp với đời, với ngườitrong làng bằng những tiếng chửi rủa, còn đời đáp cũng đáp trả lại hắn bằng tiếng chó sủa inh ỏi khắp cả làng Vũ Đại. Vậy là đã rõ, cuộc đời Chí Phèo đã đi vào hồi kết không có lỗi thoát, kiếp hắn giờ cũng được ví như kiếp sống của những con chó mà thôi. Miệng hắn thì không thôi chửi cô cháu Thị Nở nhưng đôi chân lại dẫn hắn đến trước ngôi nhà của Bá Kiến. Đoạn văn này được nhà văn Nam Cao miêu tả vô cùng tinh tế và sắc sảo và đầy tính nhân văn. Lúc này, Chí Phèo đang ở trạng thái nửa tỉnh , nửa say. Say để lẩm bẩm giết chết “con khọm già” nhà Thị Nở còn tỉnh là để đén nhà Bá Kiến đi theo thói quen trong tiềm thức. Đến nhà Bá Kiến hắn không đòi tiền như thường lệ mà đòi “làm người lương thiện”. Rõ ràng lúc này hắn đã cảm nhận được sự tuyệt vọng trong cuộc đời của mình. Hắn hét lên trong vô vọng “ai cho tôi lương thiện?” Câu hỏi đó của Chí Phèo không một ai trả lời, điều đó đau đớn đến vô cùng. Câu hỏi của hắn làm người đọc cảm thấy cảm thương sâu sắc đối với những phận người bất hạnh không biết đi đâu vào đâu trong cái xã hội thối nát này. Quá tuyệt vọng, Chí đã lao vào đâm chết lão Bá Kiến độc ác và cũng Chí đã tự kết thúc đời khốn khổ của mình .

Kết câu chuyện Nam Cao để Chí Phèo chết điều đó thể hiện được rất nhiều ý tưởng sâu xa, sâu sắc góp phần tạo nên giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm vì Chí Phèo chết đã tạo thành một bản án tố cáo xã hội thối nát, áp bức đương thời, một xã hội phi nhân nghĩa, vô tâm đã sẵn sàng tước bỏ đi quyền sống, quyền làm người của những người dân lương thiện, hiền lành. Chí chọn con đường chết cũng có nghĩa là anh ấy không muốn quay lại con đường lưu manh, không muốn tiếp tục sống một kiếp người làm kẻ độc ác nữa. Anh ấy thà chọn con đường chết chứ không chịu từ bỏ khát vọng được hoàn lương, quyết tâm không quay lại con đường tội lỗi. Đó chính là sự tin tưởng của Nam Cao vào bản chất tốt đẹp trong mỗi con người và Chí Phèo là một điển hình.

Khi miêu tả tấn bi kịch về số phận của nhân vật Chí Phèo, Nam Cao đã đi sâu giải thích chi tiết các nguyên nhân sâu xa, cốt lõi tạo nên mạch bi kịch trong cuộc đời bi đát của Chí Phèo. Trong đó nguyên nhân khách quan là xã hội nửa thực dân nửa phong kiến đã đẩy con người vào vòng sa ngã không đứng lên được. Còn nguyên nhân chủ quan là bản thân những người nông dân cùng cảnh nghèo khó lại quay lưng lại với nhau, phủ định nhau, nhìn nhau bằng con mắt đầy định kiến, tiêu biểu là bà cô của Thị Nở. Khi bị xua đuổi, đày đọa, áp bức một cách tàn nhẫn thì những người như Chí Phèo chống trả bằng con đường lưu manh. Kết thúc câu chuyện tác giả miêu tả cảnh Thị Nở nhìn xuống cái bụng của mình và thấp thoáng hình ảnh Chí Phèo hiện ra sau đó. Rất có thể một Chí Phèo con lại chào đời và sống tiếp quãng đường giống bố của nó. Hình tượng Chí Phèo được khắc họa rất thành công và khát quát hóa quy luật của xã hội. Vậy muốn kết thúc chuỗi bi kịch khốn khổ của Chí Phèo thì cần phải tiêu diệt cái xã hội ấy đi, đây chính là chiều sâu, là giá trị trong các tác phẩm của Nam Cao về miêu tả hiện thực xã hội.

Xem thêm:

Hình tượng nhân vật Chí Phèo để lại trong lòng độc giả rất nhiều cảm xúc cũng như lòng thương cảm sâu sắc đối với những kiếp người bị tha hóa trước cách mạng tháng 8. Cùng với Chị Dậu, lão Hạc,…thì hình tượng nhân vật Chí Phèo lại một lần nữa khẳng định cần có một cuộc cách mạng dân tộc và cách mạng giai cấp để đòi lại quyền sống, quyền làm người cho người dân Việt Nam lúc bấy giờ. Cho đến ngày nay, những nhân vật văn học ấy vẫn là lời nhắc, cảnh tỉnh cho chúng ta biết yêu thương, quý trọng những gì mà mình đang có và ra sức cống hiến để xây dựng cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn.

phân tích nhân vật chí phèo, phân tích chí phèo, chí phèo

Phân tích nhân vật Chí Phèo – Văn mẫu số 3

Nam Cao một trong những tác giả nổi bật nhất trong thời kì 1945 – 1954. Dưới ngòi bút chân thực của mình, đời sống, thân phận và những nỗi thống khổ của người nông dân được ông lột tả một cách vô cùng chân thực. Điển hình là các tác phẩm Chí Phèo, Lão Hạc, Một bữa no… Có một điểm chung giữa các tác phẩm của ông là khi trang sách đã khép lại, người đọc vẫn mường tượng ra rõ những đau thương của số phận con người trước cách mạng tháng Tám vẫn còn ẩn khuất đâu đó, và cũng từ đây toát lên được giá trị nhân văn mà tác giả muốn truyền tải qua mỗi tác phẩm.

Chí Phèo là tác phẩm hay nhất của nhà văn Nam Cao viết về người nông dân trước cách mạng tháng Tám. Từ hình tượng nhân vật Chí Phèo, Nam Cao đã rất xuất sắc khi xây dựng lên một hình ảnh người nông bị tha hóa đến mức cùng cực bởi xã hội thực dân nửa phong kiến đầy thối nát, để rồi người nông dân ấy phải tự tìm đến cái chết như lối thoát cuối cùng của cuộc đời mình.

Chí Phèo bước ra từ trang sách không phải với sự xuất hiện bình thường, người ta nhận ra hắn bằng tiếng chửi, “Hắn vừa đi vừa chửi…” Chí “chửi đời, chửi trời, chửi cả làng Vũ Đại, chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn”. Tiếng chửi ấy chính là “liều thuốc giảm đau” của Chí giữa cuộc đời đầy nghiệt ngã lúc bấy giờ. Hắn vừa đi vừa chửi. Chửi tất cả những đớn đau mà lẽ đời bắt hắn phải mang. Chửi cũng là một cách để giao tiếp nhưng đớn đau thay, nào ai đáp lại lời Chí. Hắn đang độc thoại lòng mình giữa cả xã hội, ai cũng xa lánh hắn, người ta mặc kệ hắn, bỏ mặc hắn như chính cái cách mà hắn bắt đầu cuộc đời mình từ ngày mới lọt lòng.

Nhìn lại cuộc đời của Chí, từ khi mới lọt lòng đã là đứa trẻ bị bỏ rơi, lớn lên bằng sự cưu mang của cả làng Vũ Đại, rồi lớn lên làm anh tá điền chân chất với ước mơ bình dị như bao người thì lại bị Bá Kiến đẩy vào tù. Đến khi trở lại làng Vũ Đại, Chí đã không còn là Chí nữa. Chí bị hủy hoại từ con người đến tính cách. Chẳng còn ai nhận ra Chí của ngày xưa hiền lành, chất phác mà giờ chỉ là thằng Chí Phèo, thích gây sự với người thường, rượu tan nát, và suốt ngày chửi bới…

Người ta nhìn thấy bây giờ là gì? Ngoài một tên lưu manh với một nhân hình gớm ghiếc “cái đầu thì trọc lóc, cái mặt thì đen mà lại rất cơng cơng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết… cái ngực phanh, đầy những nét chạm trổ rồng phượng với một ông tướng cầm chuỳ, cả hai cánh tay cũng thế.

Nhà tù thực dân như cái địa ngục trần gian có thật đẩy một người nông dân hiền lành lương thiện Chí trở thành thằng lưu manh “con quỷ dữ của làng Vũ Đại”. Mới ngày nào người dân làng Vũ Đại còn cưu mang hắn mà giờ đây ai cũng cảm thấy căm ghét, làng Vũ Đại chẳng còn được yên bình như trước nữa. Hắn hận, hận cái cuộc đời và xã hội, yêu thương bao bọc hắn và rồi cũng đẩy hắn đến đường cùng. Từ đây Chí sống bằng rượu và máu và nước mắt của biết bao nhiêu người dân lương thiện: “Hắn đã đập nát biết bao nhiêu cảnh yên vui, làm chảy máu và nước mắt của biết bao nhiêu người dân lương thiện”. Hắn làm những việc ấy trong lúc say “ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say, thức dậy vẫn còn say… đập đầu, rạch mặt, giết người trong lúc say để rồi say nữa say vô tận”. Chưa bao giờ hắn tỉnh để thấy mình tồn tại trên đời bởi vì “những cơn say của hắn tràn từ cơn này sang cơn khác thành những cơn dài mênh mang”.

Nam Cao đã rất tài tình khi đưa Chí Phèo trải qua hết nỗi đau thương này tới nỗi đau thương khác, để rồi người đọc như hình dung ra xã hội bấy giờ khắc nghiệt đến mức như thế nào. Có lẽ Chí là một kẻ đáng thương hơn là đáng trách. Đáng nhận được đồng cảm hơn là sự xa lánh. Ngòi bút của Nam Cao vẫn dành cho nhân vật của mình những yêu thương. Ông vẫn để cho Chí Phèo nhìn thấy được yêu thương. Yêu thương cho chính Chí qua những phẫn uất mà xã hội mang đến.

Sự xuất hiện của nhân vật Thị Nở trong tác phẩm có một ý nghĩa thật đặc sắc. Con người xấu ma chê quỷ hờn kia chính là niềm tin cho Chí bước đến cánh cửa lương thiện. Lần đầu tiên trong cuộc đời Chí tỉnh dậy. Chợt nhận ra nơi căn lều ẩm thấp là ánh nắng ngoài kia rực rỡ biết bao, nghe được tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá trên sông, tiếng lao xao của người đi chợ bán vải… Những âm thanh ấy ngày nào chả có. Nhưng hôm nay Chí mới nghe thấy. Chao ôi là buồn! Chính cuộc sống đã lay động trong tiềm thức xa xôi của Chí làm sống dậy ước mơ một thời trai trẻ: ”có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm”. Rồi cũng trong cái phút giây tỉnh táo ấy, Chí Phèo như đã thấy “tuổi già của hắn, đói rét, ốm đau và cô độc – cái này còn sợ hơn đói rét và ốm đau”.

Bao nhiêu mơ ước thời trai trẻ như ùa về làm thức tỉnh phần “người” trong Chí, hắn nhận ra mình cũng muốn yêu và cần được yêu, cần những điều bình dị như bao con người khác. Và rồi chính bàn tay ân cần của Thị Nở cùng với tình yêu của thị đã khơi dậy trong Chí phần người. Bát cháo hành chính là liều thuốc giải độc góp phần thức tỉnh phần người trong con quỷ dữ. Nhìn bát cháo bốc khói mà lòng Chí Phèo xao xuyến bâng khuâng.

Hắn ăn cháo hành và lấy làm mãn nguyện vì vị ngon của nó. Có lẽ đây là lần đầu tiên trong đời hắn được một tay người đàn bà cho. Trước đây chỉ toàn là giật cướp và dọa nạt. Còn ngày hôm nay, chính bàn tay ân cần ấy và tình yêu ấy đã làm hắn thay đổi. Nhìn Thị hắn như muốn khóc, hắn cảm động và ngay trong chốc lát “Hắn cảm thấy lòng thành trẻ con, hắn muốn làm nũng với thị như làm nũng với mẹ… Ôi sao mà hắn hiền?”. Vậy đó, tình yêu là phương thuốc duy nhất có thể khiến Chí trở về làm Chí, làm anh tá điền hiền lành năm nào. Và cũng chỉ có bát cháo hành của Thị Nở mới có sức mạnh cảm hóa được hắn. Bao năm qua, chưa bao giờ Chí cảm thấy mình thật sự là mình như lúc ấy. Sức mạnh của sự vị tha, của tình yêu thương con người tưởng là vô hình mà hóa ra lại vô cùng lớn lao.

Nhưng rồi hạnh phúc nhỏ nhoi cuối cùng vẫn không mỉm cười với Chí. Thị Nở vừa thắp lên được chút hi vọng thì cũng chính là lúc cơn giông cuộc đời Chí ập đến. Bà cô của Thị Nở, chính là hiện thân đầy đủ của định kiến của xã hội lúc bấy giờ. Bà ta đã đến và cướp nốt đi phần lương thiện còn lại của Chí. Chao ôi, sao mà hắn đáng thương đến tột cùng!!! Giờ thì rượu ngon hay những lời chửi thề cũng không thể khiến hắn bớt đau. Hắn nhớ, nhớ đến phát điên mùi vị cháo hành của Thị Nở, rồi hắn ôm mặt khóc rưng rức. Cái xã hội ấy đến phút tận cùng vẫn cướp đi của hắn những niềm hi vọng len lỏi để trở về con đường hoàn lương.

Phẫn uất, Chí xách dao đi, định đến nhà Thị Nở. Trong ý định, Chí định đến nhà đâm chết con “khọm già”, con “đĩ Nở” nhưng sự thức tỉnh ý thức về thân phận và bi kịch đã đẩy chệch hướng đi của Chí dẫn Chí đến thẳng nhà Bá Kiến. Trong giây phút ấy, Chí nhận ra, kẻ đã lấy đi của mình tất cả chính là Bá Kiến. Hắn cướp đi tuổi trẻ của một anh tá điền chất phác. Cướp đi cuộc đời của Chí, trả lại cho Chí cái thân hình ma dại và nhân cách chẳng còn vẹn nguyên.

– Tao muốn làm người lương thiện

– Ai cho tao lương thiện?

Câu hỏi ấy như xoáy vào tận tâm can người đời. Đến khi gấp trang sách lại, chúng ta vẫn còn như day dứt ở trong lòng. Phận người trong xã hội cũ, sống trong trăm ngàn thứ khắc nghiệt bủa vậy, bị tha hóa, bị chà đạp, bị cướp đi nhân cách và phải tự kết liễu đời mình là lối thoát duy nhất.

Nam Cao đã mang đến một sự kết hợp sâu sắc giữa giá trị hiện thực đầy đau thương và giá trị nhân đạo vô cùng tinh tế. Bằng ngòi bút sắc sảo nhưng vẫn đầy tính nhân văn, tác phẩm Chí Phèo của ông đã như là tấm gương phản chiếu lại những xót xa của một tầng lớp xã hội thời bấy giờ, nhưng chất chứa trong đó vẫn là sự cảm thông đầy sâu sắc. Có lẽ ít tác phẩm nào trong giai đoạn cùng thời lại gây được tiếng vang đến tận bây giờ như Chí Phèo của Nam Cao. Một con người mà đại điện cho cả trăm số phận khác, dù có đau thương nhưng vẫn xứng đáng được yêu thương.

phân tích nhân vật chí phèo, phân tích chí phèo, chí phèo

*

Phân tích nhân vật Chí Phèo – Bài văn số 4

“Chí Phèo” (1941) là một truyện ngắn đặc sắc của nhà văn Nam Cao viết về đề tài nông dân trước Cách mạng. Nó là một truyện ngắn có thể “làm mờ hết các tác phẩm khác cùng ra một thời”, đã đưa Nam Cao lên vị trí hàng dầu trong lớp các nhà vàn hiện thực phê phán 1930-1945. Tác giả đã xây dựng thành công một nhân vật điển hình, nhân vật Chí Phèo, phản ánh một tấn bi kịch có ý nghĩa sâu sắc vào loại tiêu biểu nhất của nền văn học Việt Nam.

Bi kịch Chí Phèo là bi kịch của một nông dân cùng khổ bị xô đẩy vào con đường lưu manh tội lỗi, bị cự tuyệt quyền làm người, hay nói một cách khác là số phận bi thảm của một con người muốn được làm người mà không thể được. Nam Cao đã viết về tấn bi kịch của Chí Phèo bằng một bút pháp vô cùng sắc sảo: biến hóa lúc kể, lúc tả, triết lí thì thấm thía, trữ tình thì đau đớn xót xa đầy ám ảnh nghệ thuật, làm xúc động lòng người hơn nửa thế kỉ nay.

Nam Cao không nói về sưu thuế dã man, không nói về tô tức mà ông coi những khám phá riêng về số phận người lao động bị chà đạp, có một cái nhìn mới mẻ độc đáo, sâu sắc trong việc thể hiện nỗi đau khổ trăm chiều của người nông dân nghèo bị áp bức bóc lột tàn tệ trong xã hội thực dân phong kiến.

Chí Phèo bất hạnh ngay từ khi sơ sinh “trần truồng và xám ngắt trong một cái váy đụp để bên cạnh lò gạch bỏ không”. Anh thả ống lương “rước lấy và đem cho một người đàn bà góa mù”, sau đó hắn bị đem bán cho bác phó cối. Chí lớn lên trong cảnh bơ vơ, không cha mẹ, không họ hàng thân thích, không một mái lều che thân, không một tấc đất cắm dùi “hết đi ở cho nhà này lại đi ở cho nhà nọ”, đến năm 20 tuổi thì Chí Phèo làm canh điền cho lí Kiến.

Có thể nói cái trang đời thơ ấu và thanh niên của Chí Phèo là 20 năm trời đắng cay không chốn nương thân, Bi kịch của anh canh điền này bắt đầu từ chuyện bà Ba ông lí còn trẻ lắm mà “lại cứ hay ốm lửng, bắt hắn bóp chân, hay xoa bụng, đấm lưng gì đấy”. Chí không phải là gỗ đá, nhưng hắn “thấy nhục hơn là thích, huống hồ lại sợ”.Chỉ một chuyện ghen tuông không đâu, Bá Kiến đã ngấm ngầm cấu kết với quan trên bắt Chí giải lên huyện, bỏ tù hắn bảy tám năm trời. Cái nhà tù thực dân đã biến Chí Phèo từ một nông dân lương thiện, hiền lành trở thành một tên lưu manh, một con quỷ dữ trong làng Vũ Đại.

Đi tù “biệt tăm”, bỗng đâu hắn lại “lù lù lần về”. Một Chí Phèo đã hoàn toàn khác hẳn: “Cái đầu thì trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà rất cơng cơng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết”. Chí mặc cái quần nái đen, cái áo táy vàng, cái ngực và cái tay chạm trổ rồng, phượng nói một ông tướng cầm chùy… Đó là hình ảnh Chí Phèo lúc ngồi uống rượu với thịt chó ở chợ từ trưa tới xế chiều, cho đến lúc say khướt. Hắn đã hành động một cách dữ dội: xông thẳng đến nhà Bá Kiến chửi “mồ mả tổ tiên đến lộn lên mất”, đập cái vỏ chai vào cái cổng, rạch mặt, kêu trời ăn vạ! Chí Phèo đã hành động như một tên đầu bò vồ cùng ngang ngược. Tuy nhiên hắn đã nhận diện ra Bá Kiến là kẻ thù của mình. Nhưng chỉ một bữa rượu, một vài câu mơn trớn, một đồng bạc đãi thêm của cụ Bá đã làm cho “Chí Phèo vô cùng hả hê”. Hắn mơ hồ về chuyện hắn “còn có họ” với lí Cường nữa đấy! Mấy hôm sau, Chí lại dở trò lưu manh đốt quán mụ bán rượu, lại vác dao đến nhà cụ Bá xin đi ở tù “bẩm quả đi ở tù sướng quá!”. Chỉ sáu ngày sau khi Chí về lại làng, hắn đến nhà Bá Kiến lần thứ hai sinh sự: “Cái mặt thì ngầu lên, hai chân thì lảo đảo, cái môi bầm lại mà run bần bật”. Hắn nghiên răng năm dọa: “… con phải đâm chết vài ba thằng rồi cụ bắt con giải huyện”. Cụ Bá cười khanh khách, vỗ vai Chí Phèo một cái, hắn như bị thôi miên, rồi vác dao đến nhà đội Tảo đòi nợ cho cụ Bá. Chẳng xảy ra chuyện đổ máu. Chí Phèo vênh vênh cầm năm chục đồng bạc ra về, tự đắc: “Anh hùng làng này cóc thằng nào bằng ta”. Từ đó Chí Phèo trở thành “đầy tớ chân tay mới” của Bá Kiến. Thế là Chí có nhà, có năm sào vườn ở bãi sông, năm đó hắn hăm bảy, hăm tám tuổi. Cũng kể từ đấy, Chí mất phương hướng hẳn, hắn trở thành tay sai đắc lực của Bá Kiến. Hắn đã bán mình cho quỷ dữ, và chẳng bao lâu hắn cũng trở thành một con quỷ dữ ghê tởm. Hắn chìm ngập vào vũng bùn tăm tối, tội lỗi. Hắn mất dần ý niệm về thời gian, không biết tuổi tác cuộc đời mình “đã dài bao nhiêu năm rồi”.Năm nối năm, tuổi nối tuổi, “ba mươi tám hay ba mươi chín? Bốn mươi hay ngoài bốn mươi?”. Bộ mặt Chí Phèo giờ đây như “cái mặt của con vật lạ” với màu “vàng vàng mà muốn xạm màu gio” với bao nhiêu là sẹo “vằn dọc vằn ngang”, vết mảnh chai ăn vạ kêu làng! Cuộc đời hắn chồng chất tội lỗi “bao nhiêu việc ức hiếp, phá phách đâm chém, người ta giao cho hắn làm”. Hắn đâm thuê chém mướn để kiếm tiền mà uống rượu. Những cơn say của hắn tràn cơn này sang cơn khác, thành một cơn dài, mênh mông. “Hắn ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say, thức dậy hãy còn say, đập đầu, rạch mặt, chửi bới dọa nạt trong lúc say, uống rượu trong lúc say, để rồi say nữa, say vô tận”. Chí Phèo bị mua chuộc, bị xô đẩy vào con đường lưu manh, tội lỗi. Muốn giết người, muốn đâm chém và cướp giật cần gan và liều mạng, hắn đã tìm đến rượu. Mất dần nhân tính, hắn trở thành con quỷ dữ làng Vũ Đại : “Hắn biết đâu hắn đã phá bao nhiều cơ nghiệp, đập nát bao nhiêu cảnh yên vui, đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt của bao người lương thiện”.

Chí Phèo đã bị cả xã hội ruồng bỏ. Cái thẻ có biên tên tuổi hắn cũng không có; trong sổ làng, người ta vẫn khai hắn vào hạng dân lưu tán, lâu năm không về làng. Tất cả dân làng đều sợ hắn, “tránh mặt hắn mỗi lần hắn qua”. Hắn chửi, ai cũng nghĩ “mặc thây cha nó”, ai cũng chẳng thèm nghe, khác nào “những người say rượu hát”. Hình ảnh Chí Phèo “vừa đi vừa chửi” gây cho người đọc nỗi ám ảnh về bi kịch của một người điên khùng, mất trí đang trải qua nỗi cô đơn tuyệt vọng. Hắn chửi tuốt, chửi trời, chửi đời, chửi cả làng Vũ Đại, chửi tất cả những ai không chửi nhau với hắn, “tức mình hắn chửi đứa nào đẻ ra chỉnh hắn!”. Chí Phèo cứ chửi, “chửi rồi lại nghe”. Hắn bị bao vây bởi một “sự im lặng đáng sợ”. Năm thì mười họa mới “ba con chó dữ với một thằng say rượu!”. Hắn đã hoàn toàn bị xã hội dứt khoát cự tuyệt không được nhìn nhận là người.

Qua nhân vật Chí Phèo, Nam Cao đã phản ánh một hiện thực khá phổ biến có tính quy luật ở nông thôn nước ta dưới thời Pháp thuộc: nhiều người lao động lương thiện bị xã hội xô đẩy vào con đường cùng, đã phản kháng lại, lưu manh, liều mạng để tồn tại. Năm Thọ “đầu bò đầu bướu” vừa đi mất tăm lại có Binh Chức lần về, Binh Chức chết lại nở ra Chí Phèo. Biết đâu thị Nở lại không để nơi lò gạch cũ một Chí Phèo con trong cái váy đụp nữa? Bọn hào lí, một mặt bóp nặn dân lành đến tận xương tùy, mặt khác “lại phải ngậm miệng cung cấp cho những thằng cùng hơn là dân cùng nên liều lĩnh, lúc nào cũng có thể cầm dao đâm người hay đâm mình”. Chừng nào còn bọn cường hào sâu mọt, độc ác, áp bức bóc lột tàn tệ dân lành, thì chừng đó còn người lao động lương thiện bị xô đẩy vào con đường lưu manh tội lỗi, phải kiếm ăn bằng đâm thuê chém mướn, bằng cướp giật. Cái xã hội ấy đã cướp đi của họ cả bộ mặt lẫn linh hồn người, hủy diệt nhân tính và đã cự tuyệt quyền làm người của họ. Nhân vật Chí Phèo đã cho thấy cái quy luật tàn bạo ghê sợ đó trong xã hội cũ.

Đoạn văn Nam Cao kể về chuyện Chí Phèo uống rượu với Tự Lãng là một tình tiết làm rõ thêm bi kịch cô đơn, điên khùng, đau đớn đến cùng cực của một kẻ bị xã hội cự tuyệt quyền làm người. Tự Lãng có “bộ râu lờ phờ”, làm nghề thầy cúng và hoạn lợn. Vợ chết đã bảy, tám năm con gái chửa hoang trốn đi. Lão cũng cô đơn như Chí Phèo. Như “đôi tri kỉ cuồng” uống rượu dưới trăng. Chúng uống sạch ba chai, “ngả vào nhau mà cười”. Say rượu, lão Tự “bò như cua”. Chí Phèo vật lão ra mà vuốt râu lão. Chí phanh ngực, vừa đi vừa gãi, lần đường tìm về mảnh vườn và cái lều của hắn. Chính trong đêm trăng ấy, Chí đang “bứt rứt quá, ngứa ngáy quá” thì hắn bắt gặp thị Nở đang nằm ngủ “cái mồm mụ há hốc lên trăng mà ngủ”. Chí Phèo đã xông tới người đàn bà “xấu ma chê quỷ hờn” đó một cách… Chí Phèo! Cuộc làm tình của Chí Phèo lúc đầu chỉ mang tính bản năng sinh vật ở một gã đàn ông say rượu với một người đàn bà ngoài ba mươi tuổi “ngẩn ngơ như những người đần trong cổ tích” mà thôi! Nhưng thật kì lạ, sau đó, sự chăm sóc giản dị đầy ân tình và sự yêu thương mộc mạc, chân thành của thị Nở đã đánh thức dậy bản chất lương thiện của người lao động trong kẻ từng rạch mặt ăn vạ và đâm thuê chém mướn này. Chí Phèo bị cảm. Thị Nở đà “quàng tay vào nách hắn” và “hắn đu vào cổ hai người lảo đảo đi về lều”. Bát cháo hành của thị Nở làm cho Chí Phèo gần như thay đổi hẳn. Lần đầu tiên hắn được nếm mùi cháo: “trời ơi cháo mới thơm làm sao!”. Cũng lần đầu tiên hắn được châm sóc bởi một bàn tay “đàn bà”. Mấy chục năm qua, hắn muốn ăn thì phải dọa, phải cướp, thế mà “lần này là lần thứ nhất hắn được một người đàn bà cho”. Và cũng là người đàn bà độc nhất trong làng Vũ Đại nhận biết bản chất lương thiện của Chí Phèo. Thị nhìn Chí Phèo ăn cháo hành rồi thết lên: “Ôi sao mà hắn hiền…”. Chỉ có thị Nở mới cảm nhận được: “hắn cười nghe thật hiền…” mà thôi!.

Đoạn văn miêu tả tâm trạng Chí Phèo sau đêm “gặp gỡ” thị Nở cho thấy Nam Cao là bậc thầy về nghệ thuật phân tích tâm lí nhân vật. Sự thức tỉnh của linh hồn trong Chí Phèo được tác giả kể lại thật xúc động, nhiều xót thương. Sáng hôm ấy, Chí Phèo tỉnh dậy “lòng bâng khuâng mơ hồ buồn”. Tiếng chim hót vui vẻ, tiếng người đi chợ cười nói, tiếng anh thuyền chèo gõ mái chèo đuổi cả.. Những tiếng quen thuộc ấy hôm nào chả có, nhưng hôm nay Chí mới nghe thấy. Lòng hắn buồn “chao ôi là buồn!”. Lương tâm hắn bị lay động. Tiếng vọng của đời thường đã đánh thức linh hồn Chí. Hắn nhớ lại những ngày xưa, một thời từng mơ ước, cái ước mơ bình dị của những người dân cày nghèo khổ “có một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải”, nuôi lợn làm vốn liếng, khá giả thì mua dăm ba sào ruộng. Càng hồi tưởng càng buồn càng lo âu. Ngoài bốn mươi tuổi đầu, Chí cảm thấy “đã tới cái dốc bên kia cuộc đời”, và hắn lo, hắn sợ “đói rét và ốm đau, và cô độc, cái này còn đáng sợ hơn đói rét và ốm đau”. Chí Phèo vừa húp cháo hành vừa trìu mến nhìn thị Nở, rồi hắn vẩn vơ nghĩ gần gnhix xa. Lâu nay hắn chỉ đâm chém và cướp giật. “Nếu không con sức mà cướp giật, dạo nạt nữa thì đã sao?”. Thằng lưu manh “chỉ mạnh về liều”. Sẽ có một lúc nào đó “không thể nào liều được nữa” thì bấy giờ mới nguy!.

Nam Cao đã cho chúng ta thấy, Chí Phèo vốn là một người lao động cùng khổ lương thiện “cái bản tính của hắn thường bị lấp đi”. Cừng với “tình yêu” sự săn sóc của thị Nở, “trận ốm thay đổi hẳn về sinh lí, cũng thay đổi về tâm lí nữa” của Chí Phèo. Đó là một cái nhìn sâu sắc với tấm lòng xót thương đầy tình người của nhà văn này đối với con gnuowif nghèo khổ, lương thiện bị xã hội xô đẩy vào con đường lưu manh, tội lỗi.

Linh hồn thức tỉnh, bản tính bị lấp đi dần dần lộ ra. Chí Phèo bỗng thấy “thèm lương thiện, muốn làm hòa với mọ người biết bao!”. Hắn khao khát được mọi người “sẽ lại nhận hắn vào cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của những người lương thiện”. Đàn bà cũng như thị Nở “không có men như rượu”, nhưng Chí “say thị lắm!”. “Với một vẻ mặt rất phong tình”, hắn bảo thị Nở: “Hay là mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui”. Câu nói ấy là một câu nói “tình từ”, đã biểu lộ chân tình cái khao khát muốn được làm người, “thèm lương thiện” và “muốn làm hòa với mọi người” của Chí Phèo. Có nghe hắn chửi, có nhìn thấy hắn rạch mặt, ăn vạ, có mục kích hắn say rượu vác dao đi đâm người… thì ta mới thấy xúc động vô cùng trước những khao khát bình dị ấy của Chí Phèo, của con người đau khổ bất hạnh!… Câu trả lời của thị Nở sẽ quyết định số phận của hắn.

Xem thêm:

Như một kẻ chết đuối giữa vực sâu, Chí Phèo “bám” được thị Nở cứ tưởng là được cọc, đâu ngờ chỉ là rễ bèo. Chí Phèo “say thị lắm”, nhưng đến hôm thứ sáu thì Thị nghĩ bụng: ” hãy dừng yêu để hỏi cô Thị đã”. Như ta biết, con đường trở lại làm người của Chí Phèo vừa được hé mở ra đã bị đóng sầm lại! Bà cô đã đay nghiến thị Nở, bà thấy cháu bà ” sao mà đĩ thế?”. Bà thấy nhục nhã, bà gào lên “như con ma dại”. Bà quyết không cho phép cháu bà “đi lấy một thằng chỉ có một nghề rạch mặt ăn vạ”. Nhưng trách gì bà ta! Cách nhìn của bà ta cũng chính là cách nhìn của mọi người làng Vũ Đại lâu nay đối với Chí Phèo. Chỉ trừ Bá Kiến và thị Nở ra, chứ còn ai nữa dám đi qua mặt Chí, dám đối diện với Chí! Tất cả quen coi hắn là “quỷ dữ” mất rồi. Hôm nay, linh hồn hắn trở về, nhưng không ai nhận ra hắn “muốn làm hòa với mọi người” nhưng ai nhận! Chí Phèo thực sự rơi vào một bi kịch tinh thần, đau đớn, quằn quại. Hắn “ngẩn người” khi nhìn và nghe Thị nói. Hắn “sửng sốt” đứng lên gọi Thị. Hắn đuổi theo “nắm lấy tay” Thị nhưng bị thị gạt ra, dúi thêm cho một cái ngã “lăn khoèo xuống sân”.

Chí Phèo vật vã trong cơn đau đớn tuyệt vọng. Hắn vớ một hòn gạch toan đập đầu ăn vạ! Hắn phải “đâm chết con đĩ Nở kia”, “đâm chết cái con khọm giá nhà nó”. Hắn lại uống, lại uống… nhưng “càng uống càng tỉnh ra”, tỉnh ra để thấm thía nỗi đau vô hạn của thân phận mình: quyền làm người được sống lương thiện đã bị xã hội và đồng loại dứt khoát cự tuvệt. Rồi “hắn ôm mặt rưng rức” cho đến khi đã say mềm người rồi hắn đi. Hắn ra đi với một con dao ở thắt lưng với câu nói l

Leave a comment

Your email address will not be published. Required fields are marked *