Dàn Ý Phân Tích Diễn Biến Tâm Trạng Ông Hai Trong Truyện Ngắn Làng (4 Mẫu)

Trong lời tự bạch của mình, KimLân nói rằng: “Nói đến tình yêu nước, nghe cảm thấy còn xa xôi, nhưng tình cảmđối với làng thì thật gần gũi, gắn bó. Đối với con người Việt Nam, làng xómnuôi những con người lớn lên bằng cả vật chất cũng như đời sống tinh thần”.Chính tình yêu làng sâu sắc của bản thân Kim Lân đã lớn dần lên thành tình cảmcách mạng. Và truyện ngắn “Làng” chính là nơi nguồn tình cảm cao quý đó có dịpthăng hoa. Đến với tác phẩm, ta gặp một nhân cách ông Hai giản dị bình thườngnhư bao người khác nhưng tràn đầy tình yêu làng, yêu nước và tinh thần khángchiến.

Đang xem: Phân tích diễn biến tâm trạng ông hai

*

Diễn biến tâm trạng ông Hai trong truyện ngắn “Làng” của nhà văn Kim Lân

Cả tác phẩm là cuộc chiến nộitâm, là thử thách đối với tình yêu làng của ông Hai khi ông nghe tin làng Chợ Dầutheo giặc. Suốt mấy ngày ông đau khổ, dằn vặt chẳng dám gặp ai. Đến khi tin đồnđược cải chính ông Hai lại hồ hởi đi khoe làng với tất cả niềm vui sướng củamình.

Với “Làng”, lồng trong tình huốngtruyện độc đáo là việc miêu tả chiều sâu tâm lí nhân vật cũng hết sức tinh tế,đặc biệt qua nhân vật ông Hai. Những rung động, xúc cảm lúc buồn lúc vui đã tạonên hiệu ứng đặc biệt với bạn đọc.

Ân tượng đầu tiên về ông Haichính là hình ảnh người nông dân Việt Nam thời kì kháng chiến chống Pháp giankhổ. Đó là con người chất phác, cần cù, siêng năng, đầy tinh thần lao động. ÔngHai đến đây chỉ là người dân đi tản cư và trong ông luôn đau đáu về quê hươngmình, nơi mà ông gắn bó đã nửa đời. Ta thấy được tình yêu đó lớn thế nào, khinghĩ đến cái cảnh ông vùng vằng nhất quyết ở làng kháng chiến và chỉ ngậm ngùichịu ra đi khi được giảng giải rằng: “tản cư cũng là kháng chiến”. Lúcđó và bây giờ cũng chẳng khác nhau là mấy. Đang ở nơi đất khách quê người, ôngluôn đau đáu về làng, luôn nhớ về cái “độ ấy”, cái lúc mà ông vui vẻ bênanh em bạn bè “cũng hát hỏng, cũng bông phèng, cũng đào cũng cuốc mê man suốtngày” … Tâm trạng ông như trẻ ra cùng những nhớ nhung, hồi tưởng.

Nơi tản cư, ông đang trọ trongnhà mụ chủ khó tính, luôn xiên xỏ… nhưng ông vẫn vì kháng chiến mà chịu đựng, vẫnlạc quan. Ông tiếp tục sống trong tình yêu làng Chợ Dầu tha thiết, yêu nước yêucách mạng, thù ghét bọn Tây cướp nước! Cũng ở nơi này, ông đã hình thành nênthói quen không thể bỏ – vào phòng thông tin đọc báo. Dù có biết chữ nhưng ôngcũng chẳng dễ dàng gì đọc được thế là phải nghe lỏm, “điều này làm ông khổtâm hết sức”. Nhưng ông chẳng nhụt chí vì ở đây luôn có những niềm vui lớn,ông được nghe “tinh những người tài giỏi” cứu nước. Cứ đến, ông lại náonức, rạo rực và lại thêm tin tưởng đến thắng lợi. Ông bước đi cùng niềm vui“náo nức” để tiếp tục cho cuộc sống nơi quê người và cảm thấy thật nhẹ nhàng,khoan khoái, sẵn sàngthả hồn trên những con đường đầy nắng, chấp chớicánh cò…

Nhưng rồi, kịch tính đã xẩy ra, mộttình huống trớ trêu đã đến. Cái tin làng Chợ Dầu của ông theo Tây không biết từđâu đã chạy theo những người tản cư mới lên tới đây, tới ngay trước cái mặtđang vênh lên vì phấn khích: “Thế ta giết được bao nhiêu thằng?”. Và rồiniềm phấn khích trong lòng ông bị dội gáo nước lạnh, cái tượng đài trong lòngông – làng Chợ Dầu đã theo Tây! Thật là khó có thể chấp nhận. Ông như dính mộtcú sốc lớn: “Cổ ông nghẹn ắng lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi tưởngnhư đến không thở được. Một lúc mới rặn è..è…”. Như cố ngoi lên tìm chúthy vọng, ônghỏi:“Liệu có thật không hở bác? Hay chỉ là lại…”.Nhưng không, người đàn bà đi tản cư đã khẳng định “Việt gian từ thằng chủ tịch…Thằng chánh Bệu…” thì khó mà bác bỏ được. Và câu hỏi “Sao bảo làng chợ Dầutinh thần lắm cơ mà?” như một đòn giáng vào tâm hồn gần như tê dại của ôngrồi. Ông cảm thấy xấu hổ vô cùng nhưng cố làm ra vẻ bình thản để che dấu tâm trạng,cúi mặt mà đi về nhà. Ông đau lắm, đến nỗi chẳng dám nhận mình là người làng ChợDầu dù ông rất tin tưởng ở những người đồng hương kháng chiến.

Ông Hai cố gắng chạy trốn, cố gắnglảng tránh nhưng cũng chẳng được vì trong tâm tưởng ông luôn có làng. Chính vìthế mà những lời nói của đám người tản cư lúc nãy cứ bám theo ông về tận nhà.Ông đã sụp đổ thật rồi. Ông nghĩ mà tủi thân, giàn giụa cả nước mắt. Ông đangnghĩ cho những đứa trẻ “làng Việt gian” sẽ bị hắt hủi hay ông đang nghĩcho chính bản thân mình? Ông đã trung thành với cách mạng vậy mà giờ đây phảimang tiếng bán nước… Ông đau đớn khôn cùng khi nghĩ về những anh em yêu nước củamình. Liệu họ có thể bán rẻ Tổ quốc? Nhưng những bằng chứng quá cụ thể đã nóilên tất cả mọi chuyện. Một mặt ông đang cố bảo vệ, mặt kia ông lên án để rồi tạothành cuộc xung đột nội tâm ghê gớm. Nhục nhã quá! Ghê tởm thay cái giống Việtgian – quân bán nước!

Trong cái khung cảnh đau khổ thếnày, bà Hai xuất hiện như một cái sự không cần thiết. Bà cũng đã nghe tin, cũngđã rất lo lắng. Khi bà nhắc đến tin đồn chỉ khiến cho một người im lặng vì“đau” phải cáu gắt. Cũng phải hiểu cho ông Hai, khi một người đang đau sẽ khócó thể thông cảm được cho nỗi đau của người khác. Không khí trong căn nhà chậtchội giờ trở nên khó thở hơn bao giờ hết…

Nỗi ám ảnh nặng nề, cảm giác đauxót, nhục nhã đã biến thành nỗi sợ hãi thường trực trong ông Hai kể từ lúc ngheđược tin dữ ấy. Bằng chứng là ông tự dày vò mình trong căn nhà nhỏ bốn ngày liền.Tất cả những gì ông làm được chỉ là nghe ngóng. Ông ngóng xem người ta bàn tánchuyện đó ra sao…, ông “nơm nớp” … ông “chột dạ” … Cứ thoáng nghe đến Tây, Việtgian, cam – nhông… là ông “lủi ra một góc nhà, nín thít”. Đã đau đớn vậy rồimà ông vẫn cứ tìm thêm nỗi đau. Có lẽ, ông biết là không nên nhưng lí trí đãthua, thua một con tim nồng nàn chẳng đổi!

Vàcuối cùng thì việc ông luôn thường trực một nỗi sợ hãi và đáng sợ hơn là mụ chủnhà bóng gió đuổi gia đình ông đi, bởi nhà ông là người làng Việt gian. “Thếlà tuyệt đường sinh sống! Cực nhục chưa! Đi đâu bây giờ?”Cái giốnglàng Việt gian mới nhục làm sao? Đến một chốn dung thân cũng chẳng có. Chẳngnơi nào chứa cái hạng người như thế. Nếu kiếm được cũng chẳng mặt mũi nào mà ở.Đó là kết quả của những suy nghĩ quặn xé từ trái tim ứa máu của ông Hai.

Xem thêm:

Trước mắt ông lão chỉ có hai con đường. Ở lại thì không được rồi. Còn về làng…Vừa chớm nghĩ thôi ông đã gạt phắt đi ngay. Là một người như ông, há ông chịuquay về cái chốn nhục nhã đó nữa, quay về chẳng phải cùng hàng với bọn Việtgian sao? Và “về làng tức là bỏ kháng chiến, bỏ cụ Hồ”. Ông đã khổ tâmquá rồi. Chọn làng hay kháng chiến? Ông khổ tâm tới mức mà phải đau đớn thốtra: ”Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù!”

Mâu thuẫn nội tâm đã được đẩy lên đỉnh điểm. Ông sa vào bế tắc. Ông đã nén, néncái đau khổ quá nhiều rồi. Và cuối cùng, ông chỉ biết giãi bày tâm sự cùng đứacon út. Với đứa con, ông trải hết cái tâm trạng trĩu nặng nỗi buồn. Trong cuộctrò chuyện, ông vẫn đưa đứa con thơ ngây một tình yêu làng chợ Dầu tha thiết,hình ảnh làng vẫn đau đáu trong tâm khảm ông. Và hơn hết, ông đã gạt bỏ cáiriêng mà hòa vào cái chung của kháng chiến. Gánh nặng trong ông đã vợi đôi phần.Hình như, đến giây phút này từ trong tấn bi kịch đó lại sáng ngời lên một tìnhcảm cao đẹp đó là tinh thần dân tộc, trung thành với cách mạng, với cụ Hồ: “Anhem đồng chí biết cho bố con ông/Cụ Hồ trên đầu trên cổ soi xét cho bố conông…”.Tình cảm đó như là nguồn nghị lực vô tận đem đến sức sống choông Hai. Ta chợt nhớ đến câu thơ của Trần Đăng Khoa trong trường ca “Khúchát người anh hùng”:

“Ngườita trong lúc hiểm nghèo

Hoặc vằng vặc sánghoặc heo hút tàn.”

Ông đã sáng, sáng chói lên lòng yêu nước chân thành của người nông dân hướng đếncách mạng, đến cụ Hồ. Vẻ đẹp đó thực sự đáng ngợi ca.

Đểrồi, hình như ông trời đã không tuyệt đường sống của ai bao giờ, nhất là với nhữngngười như ông. Nó đã đến, cái tin làng Chợ Dầu theo Tây được cải chính đã đến.Ông Hai đã sống như thể vừa được hồi sinh một lần nữa sau cuộc chiến xungđột nội tâm ghê gớm kéo dài vừa qua. Tình yêu làng, yêu nước đã trở về hòa quyệnsâu sắc hơn trong lòng người nông dân chất phác này. Ông Hai đã trút bỏ được sựdằn vặt, đau khổ bấy lâu. Niềm vui đã trở lại trên khuôn mặt buồn thiu ngày trước.Ông lão vui như chưa có lần nào vui hơn được nữa: “Mồm bỏm bẻm nhai trầu, cặpmắt hung hung đỏ, hấp háy…” rồi mua quà cho con, đi khắp nơi sang nhà bácThứ, mụ chủ nhà, hễ gặp ai ông lại nói lại kể, lại cười. Và lại khoe: “Tây đốtnhà tôi rồi bác ạ! Đốt nhẵn”. Niềm vui đó lớn đến nỗi khi kể về làng mình bịđốt nhẵn, nhà mình bị cháy rụi mà chẳng quan tâm, chẳng bận lòng, dường như chẳnghề hấn gì chỉ biết đến trước mắt là niềm vui kháng chiến, niềm vui cách mạng.Hay là vì ông Hai đã trút đi được nổi hổ thẹn, cực nhục? Mọi thứ dường như tanbiến trong hạnh phúc dâng trào. Bây giờ lại có thể tự hào, hãnh diện khoe vềcái làng kháng chiến của mình nữa rồi.

Người nông dân chất phác, mộc mạc đã tìm được con đường vẽ ra chân trời mới chohọ. Nhờ đó, cách mạng trở thành một phần trong họ – những người như ông Hai sẽđau khổ thế nào khi chân lí sống của mình bị xâm phạm. Cách mạng đã cho họ cuộcsống mới và họ hiểu để trân trọng, để bảo vệ.

Tình huống làng chợ Dầu theo Tây được cải chính là cái kết cho cuộc xung đột nộitâm gay gắt của ông Hai nhưng nó đã mở ra cả tâm và thế mới cho những nhân vậttrong truyện. Cái nhìn về làng chợ Dầu đã được thay đổi qua từng nét mặt củaông Hai. Nhờ đấy mà toát lên một vẻ đẹp tình cảm xuất phát từ đáy lòng, máu thịt- tình cảm gắn bó với làng quê, cách mạng, với Bác Hồ của những người nông dânchân chất ấy.

Xem thêm:

Xây dựng được tâm lí ông Hai một cách ấn tượng và tinh tế là thành công lớn củatruyện nhắn ”Làng”. Qua đây, sự khám phá chiều sâu tâm trạng và tâm línhân vật được Kim Lân nâng lên một tầm mới. Tác giả đã gửi lại sau “Làng”mộttình yêu, một niềm tin vào người nông dân Việt Nam trong buổi đầu kháng chiếnchống Pháp lắm gian lao.

Leave a comment

Your email address will not be published. Required fields are marked *