Phân Tích Hình Ảnh Cảnh Đoàn Thuyền Đánh Cá Ra Khơi Của Đoàn Thuyền Đánh Cá

Bài văn số 1 Huy Cận là một trong những nhà thơ tiêu biểu của phong trào thơ mới. Sau cách mạng tháng Tám, ông nhanh chóng hòa nhập vào công cuộc kháng, chiến vĩ …

*

Bài văn số 1

Huy Cận là một trong những nhà thơ tiêu biểu của phong trào thơ mới. Sau cách mạng tháng Tám, ông nhanh chóng hòa nhập vào công cuộc kháng, chiến vĩ đại và trường kỳ của dân tộc. Hòa bình lập lại, từng trang thơ Huy Cận ấm áp hơi thở cuộc sống đang lên.

Đang xem: Cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi

Bài thơ Đoàn thuyền đảnh cá được sáng tác ở Hòn Gai năm 1958 nhân một chuyến đi thực tế dài ngày của tác giả. Ba khổ thơ đầu là cảnh ra khơi của đoàn thuyền đánh cá và hình ảnh người lao động hăng say đánh cá trên biển (Trích dẫn thơ).

Mở đầu bài thơ, ta đã nghe thấy âm hưởng bài ca lao động ngân vang, khỏe khoắn cho đoàn thuyền ra khơi. Cảnh biển về đêm vừa rộng lớn lại vừa gần gũi với con người do một liên tưởng so sánh thú vị của nhà thơ:

Mặt trời xuông biên như hòn lửa

Sóng đã cài then đêm sập cứa

Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi

Câu hát căng buồm cùng giỏ khơi.

Câu hát là niềm vui, sự phấn chấn của người lao động cùng với ngọn gió căng buồm cho con thuyền lướt nhanh ra khơi. Cảm hứng lãng mạn hòa quyện, đan xen cảm húng về vũ trụ và con người đã tạo cho bài thơ có nhiều hình ảnh bất ngờ.

Cảnh biển vô cùng tráng lệ lúc hoàng hôn. Mặt trời được ví như hòn than đỏ rực. Hòn lửa từ từ lặn xuống biển. Bầu trời và mặt biển bao la như ngôi nhà vũ trụ rộng lón. Nghệ thuật so sánh độc đáo kết hợp với nghệ thuật nhân hóa sóng cài then và màn đêm là cánh cửa tạo nên những vần thơ đẹp, tạo cho người đọc nhiều ấn tượng. Ngày đã chuyển sang đêm, thiên nhiên đi vàò trạng thái nghỉ ngơi thì con người bắt đầu Không phải từng chiếc thuyền lẻ loi đi trên biển mà là cả một đoàn thuyền. Giọng thơ khỏe khoắn tươi vui bộc lộ niềm lạc quan phơi phới của người lao động. Chữ lại trong ý thơ lại ra khơi khẳng định không phải lần đầu tiên họ ra khơi mà cảnh được tái diễn thường xuyên, đều đặn và còn là sự khẳng định nhịp điệu lao động của người dân chài nhịp nhàng nhưng phấn khởi. Mặt biển đêm không lạnh lẽo mà ấm áp hẳn lên bởi tiếng hát âm vang, náo nức thể hiện niềm vui to lớn của con người lao động được giải phóng:

Câu hát căng buồm cùng gió khơi.

Chi tiết căng buồm là bút pháp lãng mạn, bay bỗng ta bắt gặp thường xuyên trong thơ Huy Cận. Đoàn thuyền ra khơi không chỉ nhờ vào gió trời mà còn cả điệu hát câu hò góp phần làm cho buồm căng. Đây là cách nói độc đáo, sáng tạo của tác giả khiến ta liên tưởng đến tiếng hát hòa cùng gió mạnh, thổi căng cánh buồm đẩy thuyền phăng phăng rẽ sóng ra khơi. Cánh buồm no gió tượng trưng cho khí thế đi lên xây dựng đất nước. Ba chi tiết: Tiếng hát – gió khơi – buồm căng là những tiết nghệ thuật mang tính tượng trưng diễn tả tinh thần phấn khởi, hăng say và khí thế ra khơi của ngư dân vùng biển. Âm thanh tiếng hát vang xa trên mặt biển. Tiếng hát gọi cá:

Hát rằng cá bạc biển Đông lặng

Cá thu biển Đông như đoàn thoi

Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng

Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi!

Những đoàn cá thoắt ẩn thoắt hiện gợi lên trong tâm trí nhà thơ cá như đoàn thoi, cá dệt biển, những màu sắc ánh sáng của cá thật đẹp. Tâm hồn người lao động tràn đầy niềm vui và say sưa: thể hiện nỗi ước ao của ngư dân hãy đến dệt sáng tấm lưới cá đi đàn cá ơi. Ra khơi đánh cá, họ mong cho biển lặng sóng êm, gặp luồng cá, đánh bắt được nhiều. Một khúc ca vui gọi cá vào mẻ lưới. Giọng thơ ngọt ngào, ngân dài vang xa đem đến cho người đọc nhiều liên tưởng thú vị về vẻ đẹp của ngôn ngữ thơ ca. Không phải một bầy cá đến dệt vào lưới mà lời mời gọi từng đoàn cá. Điều này chứng tỏ người lao động đã đoán biết được những luồng cá trên biển Đông. Họ đã nhìn thấy những luồng ánh sáng cá phát ra, lao đi, lấp lánh sáng trong bóng đêm thật đẹp.

Người lao động dường như đang thường ngoạn bức tranh vô giá của biển cả về đêm mà thiên nhiên đã hào phóng ban tặng. Âm điệu câu thơ tha thiết kết hợp với từ cảm thán ơi và dấu chấm cảm thể hiện khát vọng đến cháy bỏng của ngư dân mong muốn đánh bắt thật nhiều cá để làm giàu cho Tổ quốc. Đó cũng chính là nét đẹp của người lao động trên biển. Cảm hứng lãng mạn đã giúp nhà thơ phát hiện ra những vẻ đẹp của cảnh đánh cá giữa biển đêm, trong niềm vui phơi phới, khỏe khoắn của người lao động làm chủ công việc của mình:

Thuyền ta lải gió với buồm trăng

Lướt giữa mây cao với biến bằng

Ra đậu dặm xa dò bụng biển

Dàn đan thế trận lưới vây giăng.

Con thuyền đánh cá vốn nhỏ bé trước biển cả bao la đã trờ thành con thuyền kì vĩ, khổng lồ, hòa nhập vào với kích thước rộng lớn của thiên nhiên vũ trụ. Hai câu thơ thuyền ta lái gió với buồm trăng. Lướt giữa mây cao với biến bằng đẹp như một bức tranh lộng lộng mây trời, mênh mông biển cả. Hình ảnh đoàn thuyền được làm đẹp thêm bởi sự tưởng tượng phong phú giàu chất lãng mạn: gió là người lái thuyền, còn ánh trăng trên cao tựa là cánh buồm. Thuyền và người đã hòa nhập vào thiên nhiên bát ngát, lướt đi phơi phới trong cái thơ mộng của trời biển, giỏ, trăng. Chù nhân của con thuyền chính là những người lao động đang lồng lộng giữa biển trời với tư thế làm chủ thiên nhiên, làm chủ vũ trụ.

Tư thế ra khơi nhẹ nhàng thoải mái đầy khí thế ấy chỉ có ở những con người vừa thoát khỏi kiếp sống nô lệ đang làm chủ cuộc sống, làm chủ đất trời. Chữ lướt đặc tả đoàn thuyền ra khơi với vận tốc phi thường, thiên nhiên cùng góp sức với con người trên chặng đường lao động. Đến ngư trường để dò bụng biển: hỏi dưới lòng biển sâu thẳm kia nơi nào có nhiều cá nhất? Đây thật sự là một cuộc chiến đấu giữa con người và thiên nhiên để dành lấy từ bàn tay thiên nhiên những của cải, tài nguyên để làm giàu đất nước phục vụ cuộc sống con người bằng tất cả sức lực với trí tuệ của con người. Ngư dân muốn thu được những mẻ cá lớn thì phải có nhiều lưới, nhiều con thuyền, phải biết cách dàn đan thế trận cách bủa lưới vây giăng. Huy Cận quả có sự am hiểu sâu sắc với nghề nghiệp và cảm thông với người lao động mới vẻ được bức tranh vừa hiện thực vừa lãng mạn ấy.

Thành công của đoạn thơ là bút pháp lãng mạn và tả thực hình ảnh người dân chài lao động trên biển. Không chỉ có con người mà thiên nhiên cùng đồng hành với họ trong quá trình lao động đánh bắt cá về đêm. Sự hăng say và tinh thần phấn khởi của ngư dân đã giúp cuộc sống họ ổn định và góp một phần không nhỏ vào công cuộc xây dựng đất nước.

Biển nước ta có nguồn tài nguyên tiềm tàng, khoáng sản nổi bật là dầu khí, và nhiều loại khoáng sản như: than, sắt, ti tan, cát thủy tinh… hải sản có tổng trữ lượng hàng triệu tấn. Đặc biệt vùng biển và ven biển Việt Nam nằm án ngữ trên các tuyến hàng hải và hàng không huyết mạch, có giá trị như những cánh cửa rộng mở đê chủ động hội nhập kinh tế với thế giới. Biển nước ta giàu tài nguyên thiên nhiên, là nơi nương tựa của hàng chục triệu người dân đất Việt là không gian sinh tồn của dân tộc, là địa bàn chiến lược trong bảo vệ và phát triển đất nước. Do vậy bào vệ chủ quyển và phát huy tiềm năng biển đảo là mệnh lệnh của Tổ quốc cho mỗi người Việt Nam.

Xem thêm: Kích Thước, Size, Khổ Giấy A5 Là Bao Nhiêu Cm ? Kích Thước A5, A1, A2, A3, A4, A0, A6,

Đoạn thơ là một bài ca lao động hứng khởi, hào hùng. Bài ca ấy dành cho biển hào phóng, cho những con người cần cù, gan góc, đang làm giàu cho đất nước. Những người lao động đã thật sự làm chủ cuộc sống của mình, làm chủ vùng biển thân yêu của Tổ quốc.

Cảm hứng trữ tình và nghệ thuật điêu luyện được tác giả sử dụng trong đoạn thơ đã cuốn hút người đọc thật sự. Chúng ta cùng chia sẻ niềm vui to lớn với nhà thơ, với tất cả những người lao động mới đang kiêu hãnh ngẩng cao đầu trên con đường đi đến tương lai tươi sáng.

Bài văn số 2

Tác phẩm Đoàn thuyền đánh cá của tác giả Huy Cận đã thành công trong việc miêu tả và biểu cảm. Bài thơ đã thể hiện sự khác lạ, đáng chú ý hơn cả đó là không gian ra khơi khác với lạ thường, không gian được mở rộng, mọi vật thể trong vũ trụ vận động theo sự tuần hoàn. Việc tác giả làm như vậy để thể hiện nội dung chính của bài thơ, nói lên cuộc sống lao động nơi đây thật sôi nổi, khẩn trương.

Tác giả viết theo trình tự ra khơi. Vùng biển Quảng Ninh hiện ra trước mắt người đọc hết sức hùng vĩ qua ngòi bút của Huy Cận;

” Mặt trời xuống biển như hòn lửa

Sóng đã cài then đêm sập cửa

Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi

Câu hát căng buồm cùng gió khơi. “

Cảnh tượng đoàn thuyền ra khơi thật là đẹp, màu sắc ấm áp, âm thanh rộn ràng Cảnh buổi chiều trên vùng biển được miêu tả qua cái nhìn của dân chài. Đó là hình ảnh “Mặt trời xuống biển như hòn lửa” tạo ra vẻ đẹp lộng lẫy và huyền ảo. Nhưng điều làm cho bài thơ của Huy Cận đáng chú ý đó là cách nói hết sức độc đáo, mới lạ. Tả mặt biển khi màn đêm xuống “Sóng đã cài then, đêm sập cửa”. Tác giả đã dùng biện pháp nhân hoá để người đọc cảm nhận được biển trở thành ngôi nhà khổng lồ vừa có cửa đóng, then cài thì cũng là lúc “Đoàn thuyền đánh cá ra khơi”. Cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi vừa lạc quan, vui tươi, yêu đời như trở về ngôi nhà ấm áp, an toàn:

Bài văn số 3

Huy Cận là một trong những nhà thơ tiêu biểu của phong trào Thơ Mới .Sau cách mạng ông nhanh chóng hoà nhập vào công cuộc kháng chiến vĩ đại và trường kì của dân tộc .Hoà bình lập lại ,từng trang thơ Huy Cận ấm áp hơi thở của cuộc sống đang lên . Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá”được sáng tác ở Hòn Gai năm 1958 nhân một chuyến đi thực tế dài ngày . Bài thơ thực sư là một bài ca ca ngợi cuộc sống của những con người lao động mới .

Với đôi mắt quan sát sắc sảo ,trí tưởng tượng phong phú ,trái tim nhạy cảm và tài năng nghệ thuật điêu luyện ,nhà thơ đã vẽ lên trước mắt chúng ta khung cảnh lao động hăng say trên biển .Cả bài thơ như một bức tranh sơn mài lộng lẫy những sắc màu huyền ảo ,cuốn hút vô cùng:

Mặt trời xuống biển như hòn lửa

Sóng đã cài then đêm sập cửa

Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi

Câu hát căng buồm với gió khơi .

Đoàn thyền đánh cá rời bến vào lúc hoàng hôn ,mặt trời như hòn lửa đỏ rực đang lặn dần vào lòng đại dương mênh mông , màn đêm buông xuống ,kết thúc một ngày .Biển kín đáo như một gian phòng lớn của thiên nhiên bởi cách nói thật riêng biệt “sóng đã cài then đêm sập cửa”.Chính vào thời điểm ấy, ngư dân bắt tay vào công việc quen thuộc của mình : Ra khơi đánh cá !Mặt biển đêm không lạnh lẽo mà ấm áp hẳn lên bởi tiếng hát âm vang, náo nức, thể hiện niềm vui to lớn của người lao động được giải phóng , tiếng hát hoà cùng gió, thổi căng buồm đưa đoàn thuyền ra khơi .Lời hát ca ngợi sự giàu có và hào phóng của biển cả cùng vẻ đẹp lung linh, diệu kì của nó trong đêm :

Bài văn số 4

Huy Cân là một trong những cây đại thụ của nền văn học Việt Nam thế kỉ XX. Trước CMT8, Huy Cận thường viết về nỗi buồn, nỗi cô đơn rợn ngợp của con người khi nhận ra sự nhỏ bé của mình trước vũ trụ bao la rộng lớn. Nhưng kể từ sau CMT8, đất nước hồi sinh, hồn thơ Huy Cận như sống lại và có nhiều chuyển biến. Thơ ông không còn ưu sầu, ảo não nữa mà chan chứa niềm vui, niềm tin yêu vào cuộc sống, vào những con người mới. Năm 1958, sau một chuyến đi khảo sát thực tế dài ngày ở vùng mỏ Quảng Ninh, được sống và chứng kiến không khí lao động hăng say, khẩn trương sôi nổi của nhân dân ta trong những ngày xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, nhờ thơ vui cùng mừng vui, xúc động. Từ đó ông sáng tác nên bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” như một bản hùng ca ca ngợi cuộc sống mới, thiên nhiên đất nước con người bao la rộng lớn, nên thơ tươi đẹp.

Ngay mở đầu bài thơ ta đã nghe thấy âm hưởng bài ca lao động ngân vang, khoẻ khoắn trong cảnh đoàn thuyền ra khơi. Đó là cảnh ra khơi trong buổi hoàng hôn thật huy hoàng, tráng lệ, đầy sức sống:

Mặt trời xuống biển như hòn lửa

Sóng đã cài then đêm sập cửa

Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi

Câu hát căng buồm cùng gió khơi.

Biện pháp so sánh độc đáo gợi lên hình ảnh mặt trời như một hòn lửa khổng lồ đang từ từ lặn sâu vào lòng biển cả để lại trên mặt biển những tia sáng đỏ ối, báo hiệu một ngày mới đã trôi qua, hoàng hôn bắt đầu buông xuống. Sang đến câu 2, hình ảnh thơ càng trở nên mới lạ độc đáo, thể hiện một trí tưởng tượng vô cùng phong phú của nhà thơ: “Sóng đã cài then, đêm sập cửa”.

Bài văn số 5

Huy Cận là một trong những nhà thơ tiêu biểu của nền thi ca Việt Nam hiện đại. Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” được ông viết tại vùng biển Hòn Gai ngày 1.10.1958, in trong tập thơ “Trời mỗi ngày lại sáng”.

Bài thơ được viết theo thể thơ thất ngôn gồm có 7 khổ thơ, mỗi khổ thơ có 4 câu; đoạn thơ trong sách Tiếng Việt 4, chỉ trích 5 khổ thơ. Tác giả tả đoàn thuyền đánh cá một đêm trăng trên Hạ Long, qua đó ca ngợi tinh thần lao động hăng say và lạc quan yêu đời của những người dân chài trong chế độ mới.

Xem thêm:

Khổ thơ thứ nhất nói về cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi khi “Mặt Trời xuống biển”. Mặt Trời đỏ rực “như hòn lửa” vừa “xuống biển” thì chỉ thấy những con sóng như then cài “sập cửa” ngôi nhà vũ trụ. Chính lúc đó, đoàn thuyền ra khơi. Tiếng hát của ngư dân vang xa hòa với gió khơi đã làm căng cánh buồm. Tiếng hát và cánh buồm căng gió biển thể hiện khí thế ra khơi đã phấn chấn của đoàn thuyền đánh cá.

Leave a comment

Your email address will not be published. Required fields are marked *